Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Hàng hóa thế giới sáng 19-9: Giảm phiên thứ 2 liên tiếp, dẫn đầu là dầu và đậu tương

  • Dầu thô Brent giảm gần 2% trong ngày, giảm 4% trong tuần
  • Đậu tương thấp nhất 1 tháng, giảm 6% trong 2 ngày
  • Bạch kim cũng giảm sau khi các chủ mỏ Nam Phi chấp nhận tăng lương
  • Đồng vững nhưng triển vọng yếu

Giá hàng hóa tiếp tục giảm phiên giao dịch vừa qua, 18-9 (kết thúc vào rạng sáng 19/9), giảm phiên thứ 2 liên tiếp do lo ngại những vấn đề kinh tế kinh niên của Mỹ và châu Âu sẽ chưa sớm được cải thiện, và nhà đầu tư thận trọng về triển vọng nhu cầu dầu mỏ, kim loại và nông sản – những mặt hàng giá tăng mạnh gần đây sau những nỗ lực kích thích kinh tế của các ngân hàng trung ương.

Sự phấn khích sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ quyết định tung ra 40 tỷ USD mỗi tháng để mua trái phiếu đã giúp đẩy giá nhiều mặt hàng tăng mạnh.

Nhưng xu hướng này không kéo dài lâu bởi thiếu vắng những bằng chứng về sự hồi phục kinh tế Hoa Kỳ.

Ở khu vực đồng euro, áp lực gia tăng về việc Tây Ban Nha yêu cầu trợ giúp và Ngân hàng Trung ương châu Âu cần thử nghiệm chương trình mua trái phiếu.

Dầu thô giảm giá gần 2% trong ngày, giảm hơn 4% từ đầu tuần đến nay, sau hôm đầu tuần bán tháo mạnh mẽ.

Đậu tương giảm giá 6% từ đầu tuần đến nay.

Đồng vững giá sau khi bán ra mạnh mẽ, giảm ở New York nhưng tăng ở London, song triển vọng thị trường kim loại cơ bản số 1 này vẫn yếu.

“Với gói nới lỏng định lượng mới của Fed hậu thuẫn, các nhà đầu tư đang hướng trở lại với hàng hóa, trong bối cảnh kinh tế ảm đạm và tình hình nợ chưa được giải quyết vẫn còn sôi sục ở châu Âu”, Edward Meir, nhà phân tích kim loại cơ bản tại INTL FCStone nhận định.

Nhưng ông thêm rằng: “Thật không may, mọi thứ sẽ không suôn sẻ, đặc biệt khi mọi thứ đều dựa vào sự hồi phục kinh tế Mỹ, nơi mà những quyết định của Fed cần có thời gian để phát huy tác dụng”.

Trong số các kim loại cơ bản, bạch kim giảm 2%, bởi các chủ khai thác ở mỏ Lonmin của Nam Phi chấp nhận các điều kiện thanh toán để công nhân quay trở lại làm việc.

Chỉ số 19 nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB giảm 1%, sau khi giảm 2% phiên trước đó, và là 2 ngày giảm giá mạnh nhất kể từ tháng 6.

Dầu mỏ chịu sức ép từ việc nước sản xuất số 1 thế giới là Arập Xêút bơm khoảng 10 triệu thùng dầu mỗi ngày, kéo dầu Brent tiền về gần hơn ngưỡng USD/thùng.

Dầu Bent kết thúc phiên giao dịch ở mức 112,03 USD/thùng, giảm khỏi mức cao kỷ lục 4 tháng là 118 USD.

Phần lớn các nước sản xuất dầu OPEC muốn giá dầu ở mức khoảng 100 USD/thùng và sẽ thúc đẩy sản xuất trong vài tháng tới, một nguồn tin vùng Vịnh cho biết.

“Trừ khi gián đoạn nguồn cung ở Trung Đông, còn thì không có yếu tố nào khác có tác động đẩy giá tăng lên”, nhà phân tích Andrey Kryuchenkov thuộc VTB Capital cho biết. "Arập Xêút sẽ cố gắng để kéo giá dầu về 100 USD”.

Giá đậu tương xuống mức thấp nhất 1 tháng bởi cơn phấn khích về gói kích thích của Fed đã qua, và vụ thu hoạch nông sản của Mỹ tiến triển tốt, với sản lượng vẫn cao kỷ lục, mặc dù trước đây lo ngại hạn hán sẽ làm giảm sản lượng”.

Năng suất đậu tương cao hơn dự kiến, trong khi lo ngại về nhu cầu của nước nhập khẩu đậu tương hàng đầu thế giới là Trung Quốc và lượng giết mổ thịt lợn ở Mỹ gia tăng – một trong những lĩnh vực chính sử dụng đậu tương làm thức ăn chăn nuôi.

Đậu tương giảm giá 1,8% xuống mức 16,40 USD/bushel tại Chicago, sau khi xuống mức 16,30-1/2 USD, thấp nhất kể từ 17/8. Hợp đồng này đã đạt kỷ lục cao trên 17,55 USD hồi đầu tháng này bởi lo ngại thời tiết ở Mỹ làm giảm sản lượng.

Không chỉ đậu tương, giá ngô cũng chịu áp lực giảm, giảm 1,7% trong phiên vừa qua. Lúa mì giảm gần 1%.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

+/-(so với đầu năm)

Dầu thô WTI

USD/thùng

95,46

-1,16

-1,2%

 -3,4%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

111,81

-1,98

-1,7%

4,1%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

2,773

 -0,092

-3,2%

 -7,2%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

1771,20

 0,60

 0,0%

 13,0%

Vàng kỳ hạn

USD/ounce

1770,49

 9,54

 0,5%

 13,2%

Đồng Mỹ

US cent/lb        

 380,25

-0,75

-0,2%

 10,7%

Đồng LME

USD/tấn

 8319,00

18,00

 0,2%

9,5%

Dollar

 

 79,188

0,185

 0,2%

 -1,2%

CRB

 

311,560

 -2,900

-0,9%

2,1%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

744,00

-8,50

-1,1%

 15,1%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

 1639,25

 -30,75

-1,8%

 36,8%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

875,75

 -14,50

-1,6%

 34,2%

Cà phê arabica

 US cent/lb

 177,50

 1,85

 1,1%

-22,2%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2532,00

 -52,00

-2,0%

 20,1%

Đường thô

US cent/lb

19,44

-0,59

-2,9%

-16,3%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

 34,644

0,346

 1,0%

 24,1%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

1635,30

 -36,30

-2,2%

 16,4%

Palladium Mỹ

USD/ounce

 666,85

 -21,75

-3,2%

1,6%

Nguồn tin: Reuters

ĐỌC THÊM