Phát hiện khí đốt mới nhất của Ấn Độ tại lưu vực Andaman-Nicobar chưa được khai thác có thể là một bước đệm giá trị hướng tới việc tăng sản lượng thượng nguồn trong nước và tăng cường an ninh năng lượng cho đất nước - nhưng liệu lưu vực này có thể trở thành một nguồn đóng góp đáng kể vào nguồn cung khí đốt trong nước của Ấn Độ và thu hút thêm sự quan tâm của các công ty dầu khí quốc gia và quốc tế trong dài hạn hay không sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó có quy mô trữ lượng. Sự hiện diện của hydrocarbon trong giếng Sri Vijayapuram-2 do Oil India dẫn đầu tại vùng nước sâu Andaman đã được xác nhận tại hội nghị Phân tích Lưu vực vào tuần trước tại Mumbai.
Giếng này - một phần của chiến dịch thăm dò ba giếng mà Oil India đã khởi động vào năm ngoái tại Lô AN-OSHP-2018/1 Andaman, được trao theo Chính sách Cấp phép Khai thác Mở (OALP) Vòng II năm 2019 - đã được khoan trên bờ biển phía đông của Quần đảo Andaman ở độ sâu 295 mét và đạt độ sâu mục tiêu là 2.650 mét. Ông Hardeep Singh Puri, Bộ trưởng Dầu khí và Khí đốt Tự nhiên Ấn Độ, cũng xác nhận rằng "thử nghiệm sản xuất ban đầu của giếng trong phạm vi từ 2.212 đến 2.250 mét đã xác định sự hiện diện của khí tự nhiên với quá trình đốt cháy gián đoạn, với khoảng 87% mêtan".
Phát hiện khí đốt nước sâu này và thông báo kép của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Ấn Độ (ONGC) vào năm ngoái - Konark và Utkal tại lưu vực Mahanadi, ngoài khơi bờ biển phía đông Ấn Độ - báo hiệu sự chính muồi trong nỗ lực thăm dò ngoài khơi của Ấn Độ, phản ánh thành công về chính sách, nỗ lực hợp tác từ các cơ quan quản lý như Bộ Dầu khí và Khí đốt Quốc gia, Tổng cục Dầu khí (DGH) và các công ty dầu khí quốc gia (NOC). Tuy nhiên, mức độ chuyển đổi của những phát hiện này sẽ phụ thuộc vào quy mô trữ lượng, tốc độ phát triển, chi phí, quản lý môi trường và mức độ phù hợp của chúng với chiến lược chuyển đổi năng lượng dài hạn của Ấn Độ.
Phát hiện khí đốt mới này tại lưu vực Andaman có thể mang tính chuyển đổi, cả đối với lưu vực này và chiến lược năng lượng rộng lớn hơn của Ấn Độ, khi đất nước thực hiện sứ mệnh 'Samudra Manthan' ('Khuấy động Đại dương') của Thủ tướng Narendra Modi - một sáng kiến nhằm khám phá tiềm năng dầu khí nước sâu chưa được khai thác. Khu vực nước sâu Andaman, bao gồm nhiều khu vực khác như Krishna-Godaveri và Mahanadi, vẫn chưa được thăm dò chính thức, chủ yếu do chi phí liên quan và những thách thức kỹ thuật, và bị ảnh hưởng đáng kể do thiếu dữ liệu địa chấn nước sâu chất lượng cao. Mặc dù có triển vọng về địa chất và những phát hiện quan trọng trong các lưu vực tương tự, lưu vực Andaman-Nicobar chỉ có một số ít giếng thăm dò trong nhiều thập kỷ. Hoạt động khoan thưa thớt cho thấy sự quan tâm của ngành vốn đã hạn chế, với việc các nhà khai thác ngần ngại đầu tư khi chưa có thành công đã được chứng minh. Việc thiếu các chiến dịch khoan liên tục cho thấy vị thế tiên phong của lưu vực và cách tiếp cận thận trọng mà các công ty đã áp dụng đối với hoạt động thăm dò.
Tuy nhiên, việc công bố phát hiện này sẽ giúp xác nhận tiềm năng hydrocarbon của khu vực nước sâu của Ấn Độ và khuyến khích đầu tư và khoan thăm dò nhiều hơn nữa, có khả năng thúc đẩy việc phát triển cơ sở hạ tầng ngoài khơi mới, bao gồm các giàn khai thác, đường ống và có thể là các cơ sở khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nổi. Điều này có thể biến lưu vực này thành một nguồn cung cấp khí đốt đáng kể cho nguồn cung khí đốt nội địa của Ấn Độ, nhưng vẫn chưa rõ liệu quy mô của vỉa chứa và tiềm năng sản xuất của nó có khả thi về mặt kinh tế hay không.
Khi sản lượng trong nước tiếp tục sụt giảm, những phát hiện khí đốt mới ngày càng trở nên quan trọng đối với bức tranh năng lượng của Ấn Độ. Chúng mở ra con đường tăng cường an ninh năng lượng, tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi suôn sẻ hơn sang một tương lai carbon thấp - nhưng quan trọng hơn, chúng có thể giúp đất nước chuyển đổi từ sự phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu. Hơn nữa, khí đốt tự nhiên đóng vai trò là nhiên liệu hóa thạch tương đối sạch hơn, hỗ trợ các mục tiêu khí hậu của đất nước bằng cách cho phép chuyển đổi từ than đá trong sản xuất điện và sử dụng trong công nghiệp. Ngoài ra, đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều vào các NOC, việc thiết lập tiềm năng nước sâu kết hợp với các điều khoản tài chính phù hợp có thể giúp kích thích đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ và thăm dò ngoài khơi, chủ yếu thu hút các công ty dầu khí quốc tế (IOC) đầu tư vào các lưu vực chưa được khai thác của quốc gia.
Việc thăm dò nước sâu đòi hỏi công nghệ và nhiều vốn, do đó, những nỗ lực liên tục của các NOC có thể giúp thu hút các IOC có công nghệ tốt hơn, từ đó có thể đẩy nhanh quá trình phát hiện và khai thác. Ngoài ra, phát hiện ở Andaman có thể sẽ thúc đẩy nhiều cuộc khảo sát địa chấn 3D và khoan thăm dò chất lượng cao hơn, không chỉ ở lưu vực Andaman-Nicobar mà còn ở các vùng nước sâu chưa được khai thác khác, đồng thời giúp tăng cường trữ lượng của quốc gia. Tuy nhiên, các rủi ro trên mặt đất như thách thức môi trường sẽ đóng vai trò then chốt vì các hoạt động khai thác và thăm dò nước sâu ngoài khơi Andaman-Nicobar sẽ cần phải quản lý cẩn thận các rủi ro môi trường, bao gồm tác động đến hệ sinh thái biển, rủi ro tràn dầu tiềm ẩn và tác động của khí nhà kính. Do đó, ngoài việc cung cấp năng lượng, trữ lượng khí đốt mới có thể cung cấp một vùng đệm chiến lược, củng cố sức mạnh đàm phán trên thị trường toàn cầu và hỗ trợ tăng trưởng công nghiệp bằng cách đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho tăng trưởng công nghiệp và nguồn cung nội địa ổn định, đặt nền tảng cho phát triển năng lượng bền vững, an toàn và hiệu quả kinh tế.
Ấn Độ tiếp tục chứng kiến sự quan tâm ngày càng tăng từ các công ty dầu khí quốc tế (IOC) – thể hiện qua biên bản ghi nhớ (MoU) tháng 7 năm 2025 giữa ONGC và BP về việc hợp tác khoan các giếng địa tầng tại các lưu vực trầm tích ngoài khơi Ấn Độ gồm Andaman, Mahanadi, Saurashtra và Bengal – nhằm nâng cao hiểu biết về địa chất và khai thác tiềm năng hydrocarbon chưa được khai thác, qua đó củng cố an ninh năng lượng dài hạn của đất nước. Khi các mối quan hệ đối tác này tiếp tục phát triển, việc công bố các phát hiện mới có thể đóng vai trò là chất xúc tác cho dòng vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sự phụ thuộc của Ấn Độ vào các NOC, chẳng hạn như ONGC và Oil India, là không thể phủ nhận và sẽ tiếp tục là một đặc điểm nổi bật của ngành năng lượng nước này. Việc thu hút các IOC tích cực tham gia thăm dò các lưu vực biên giới của quốc gia sẽ đòi hỏi phải nâng cấp đáng kể các quy định và minh bạch trong việc chia sẻ dữ liệu. Vì vậy, cho đến lúc đó, các NOC này sẽ vẫn là những đối tác không thể thiếu trong việc đảm bảo tương lai hydrocarbon của đất nước, ngay cả khi sự hợp tác với các tổ chức tư nhân và nước ngoài ngày càng mở rộng.
Nguồn tin: xangdau.net/Rystad Energy