Khối lượng phát hiện thông thường hàng năm từng đạt trung bình hơn 20 tỷ thùng dầu quy đổi (boe) mỗi năm vào đầu những năm 2010, nhưng con số này đã giảm xuống còn gần một phần ba, với phân tích của Rystad Energy cho thấy sản lượng được phát hiện toàn cầu đã đạt trung bình hơn 8 tỷ boe mỗi năm kể từ năm 2020, bất chấp một số phát hiện vượt bậc ở Namibia, Suriname và Guyana. Đáng buồn thay, mức trung bình hàng năm tiếp tục giảm xuống còn khoảng 5,5 tỷ boe từ năm 2023 đến tháng 9 năm nay. Sự thu hẹp này phản ánh một thay đổi chiến lược, trong đó bản đồ thăm dò toàn cầu của các công ty thăm dò và khai thác (E&P) được xác định ít hơn bởi diện tích tuyệt đối mà chủ yếu bởi độ chính xác chiến lược. Các tập đoàn dầu khí và các công ty dầu khí quốc gia (NOC) lớn đều đang thu hẹp trọng tâm vào một số ít các lưu vực có tác động lớn – lưu vực Orange của Namibia, lưu vực nước sâu của Suriname và lưu vực tiền muối của Brazil – và các hoạt động thăm dò gần mỏ giàu cơ sở hạ tầng, đồng thời thoái vốn khỏi các khu vực cận biên, đã bão hòa và lợi nhuận thấp. Các chiến dịch thăm dò có lợi thế này kết hợp các bộ dữ liệu ngầm tiên tiến, kết nối gần mỏ chi phí thấp, triển khai công nghệ số và sử dụng cơ sở hạ tầng carbon thấp để cân bằng rủi ro với lợi nhuận.
Sự tập trung các phát hiện này ở một số ít quốc gia hoặc các điểm nóng cụ thể – Namibia, Guyana, Brazil và Suriname, cùng nhiều quốc gia khác – cho thấy sự thu hẹp địa lý của thành công trong thăm dò và khẩu vị chấp nhận rủi ro của các công ty E&P toàn cầu. Các quốc gia biên giới coi đây là cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài thông qua các điều khoản tài chính thuận lợi, giúp tạo doanh thu và xây dựng an ninh năng lượng. Việc tiếp tục đánh giá các khu vực khai thác chưa được thăm dò, chẳng hạn như vùng nước cực sâu hoặc các bẫy địa tầng chưa được khai thác, mang lại cho các quốc gia khai thác lâu năm lựa chọn tăng trưởng dài hạn và một cách để ngăn chặn sự suy giảm sản lượng.
Trong thập kỷ qua, đã có một sự thay đổi rõ rệt về vị trí của những cơ hội này, được nhấn mạnh bởi hai sự kiện mở lưu vực mang tính chuyển đổi dọc theo rìa Nam Đại Tây Dương - và điều này hiện đang được tiếp nối với Lưu vực Orange ngoài khơi Namibia. Sự kiện đầu tiên là sự trỗi dậy của kỷ nguyên tiền muối, khởi đầu bằng việc Petrobras phát hiện ra mỏ Tupi (nay là Lula) ở Lưu vực Santos ngoài khơi Brazil vào năm 2006. Phát hiện này đã định hình lại các ranh giới thăm dò toàn cầu bằng cách chứng minh khả năng của ngành trong việc chụp ảnh và khai thác hydrocarbon bên dưới các lớp muối dày mà trước đây được coi là bất khả xâm phạm. Bước đột phá này mang tính công nghệ cũng như địa chất: hình ảnh địa chấn được cải thiện, khoan định hướng và kỹ thuật dưới biển đã mở ra một loại hình khai thác mà các nhà thăm dò đã không thể khám phá trong nhiều thập kỷ. Biên giới khai thác mang tính bước ngoặt thứ hai nổi lên ở Guyana và Suriname, nơi phát hiện Liza năm 2015 của ExxonMobil tại Lô Stabroek đã mở ra một trong những tỉnh dầu khí mới thành công nhất của thế kỷ 21. Cho đến nay, liên doanh do ExxonMobil dẫn đầu đã phát hiện khoảng 13 tỷ thùng dầu quy đổi (boe) tài nguyên có thể khai thác ngoài khơi Guyana, trải rộng trên hơn 30 phát hiện, cùng với 2 tỷ thùng dầu quy đổi khác từ Suriname. Vùng đất thứ ba và gần đây nhất hiện đang mở ra ở lưu vực Orange của Namibia, nơi các phát hiện trong ba năm qua của Shell, TotalEnergies và Galp Energia đã mở ra vùng đất mà nhiều người coi là thủ phủ dầu khí mới đầy hứa hẹn nhất trong thập kỷ này, đóng vai trò là yếu tố có thể thúc đẩy quá trình chuyển đổi của quốc gia Nam Phi này thành một nhà sản xuất dầu khí nước sâu lớn.
Cả các tập đoàn dầu khí quốc tế và NOC đều tiếp tục đóng vai trò then chốt trong việc duy trì hoạt động thăm dò và sản lượng dầu khí được phát hiện trên toàn cầu. Mặc dù các phát hiện dầu khí thông thường đã suy giảm trong một thập kỷ, hai tập đoàn này cùng nhau chiếm phần lớn các nguồn tài nguyên mới được tìm thấy trên toàn thế giới, phản ánh năng lực độc đáo và các ưu tiên chiến lược của họ. Nhóm sáu công ty dầu khí lớn – ExxonMobil, TotalEnergies, Shell, Eni, BP và Chevron – chiếm khoảng 22% khối lượng được phát hiện kể từ năm 2015, theo ước tính của Rystad Energy. Các tổ chức này vẫn là động lực chính của hoạt động thăm dò biên giới, tận dụng công nghệ hình ảnh ngầm tiên tiến, phân tích kỹ thuật số và sức mạnh vốn để mở ra các tỉnh dầu khí mới, đồng thời thiết lập các tiêu chuẩn mới để giảm thời gian chờ tính từ lúc phát hiện thấy dầu và khai thác. Trong khi đó, các NOC tập trung mạnh vào việc thăm dò các lưu vực trong nước và khu vực đang cân bằng an ninh năng lượng quốc gia với việc mở rộng danh mục đầu tư. Các công ty như Petrobras, ADNOC và QatarEnergy đang dẫn đầu các nỗ lực thăm dò, không chỉ để thay thế trữ lượng mà còn củng cố vai trò của họ là những công ty dầu khí quốc tế nổi bật. Cùng nhau, các công ty lớn và NOC thống trị các phát hiện nước sâu có tác động lớn tiếp tục neo giữ tăng trưởng nguồn cung toàn cầu, trong khi các công ty độc lập và các công ty nhỏ hơn đóng góp một cách có chọn lọc. Do đó, rủi ro và lợi nhuận tiềm năng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các điểm nóng thăm dò toàn cầu và phân định các triển vọng chiến lược có tác động lớn, trong khi hoạt động thăm dò quy mô lớn phụ thuộc rất nhiều vào các tổ chức có cả chuyên môn kỹ thuật sâu rộng lẫn nhu cầu đầu tư dài hạn.
Nếu không có hoạt động thăm dò liên tục, tình trạng thiếu hụt nguồn cung và biến động giá có thể đe dọa cả an ninh năng lượng và sự ổn định của quá trình chuyển đổi năng lượng. Do đó, khi thế giới tiếp tục sử dụng hydrocarbon mặc dù đang hướng tới mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 và giảm lượng khí thải carbon, một điều rõ ràng là: chúng ta không thể quản lý sự suy giảm sản lượng mà không có những phát hiện mới.
Bên dưới đường cong phát hiện liên tục thu hẹp là sự sụt giảm mạnh về chi phí thăm dò (expex), hiện dao động khoảng 50 đến 60 tỷ đô la mỗi năm - giảm so với mức đỉnh điểm khoảng 115 tỷ đô la vào năm 2013. Sự chuyển hướng của ngành phản ánh cả áp lực bên ngoài - chính sách khí hậu, sự giám sát của nhà đầu tư và nhu cầu duy trì lợi nhuận - và kỷ luật nội bộ xuất phát từ các chu kỳ đầu tư quá mức trong quá khứ. Tuy nhiên, do các đường ống dự án tiếp tục thu hẹp do hoạt động thăm dò và sản lượng được tìm thấy sụt giảm, việc thăm dò và phát hiện mới vẫn rất quan trọng để duy trì nguồn cung dầu khí toàn cầu phù hợp với nhu cầu dài hạn.
Nguồn tin: xangdau.net/Rystad Energy






















