Như một quan chức cấp cao của Điện Kremlin đã tiết lộ độc quyền với OilPrice.com cách đây vài năm: "Bằng cách loại phương Tây khỏi các thỏa thuận năng lượng ở Iraq, sự kết thúc của bá quyền phương Tây ở Trung Đông sẽ trở thành chương quyết định trong sự sụp đổ cuối cùng của phương Tây." Do đó, Nga và Trung Quốc đã thúc đẩy - đặc biệt là kể từ khi Mỹ đơn phương rút khỏi "thỏa thuận hạt nhân" với Iran vào năm 2018 - để loại bỏ tất cả các công ty phương Tây khỏi miền nam Iraq và khỏi vùng lãnh thổ bán tự trị của người Kurd ở phía bắc. Ở phía bên kia của phương trình siêu cường, Hoa Kỳ và các đồng minh chủ chốt tin rằng việc phá vỡ các mối liên kết nhiều tầng giữa Iraq và Iran sẽ không chỉ làm suy yếu đáng kể quốc gia láng giềng của Baghdad mà còn làm suy yếu cả các nhà tài trợ chính của nước này, Trung Quốc và Nga. Hoa Kỳ và Israel cũng có lợi ích chiến lược sâu rộng hơn trong việc sử dụng khu vực người Kurd ở Iraq làm căn cứ cho các hoạt động giám sát đang diễn ra chống lại Iran. Phương Tây cũng coi vùng lãnh thổ phía bắc này là cầu nối an ninh quan trọng từ Thổ Nhĩ Kỳ, thành viên NATO, đến Trung Đông và xa hơn nữa. Chính trong bối cảnh cân bằng quyền lực địa chính trị to lớn này, tin tức về việc tập đoàn dầu mỏ khổng lồ Rosneft của Nga thu hẹp quy mô hoạt động tại khu vực người Kurd ở Iraq nên được chú ý.
Điểm mấu chốt về hoạt động của Rosneft tại khu vực người Kurd ở Iraq là Nga thực sự kiểm soát cơ sở hạ tầng dầu mỏ quan trọng tại khu vực bán tự trị này, và do đó cũng tạo ra ảnh hưởng to lớn đến dòng chảy dầu mỏ của Chính phủ Liên bang Iraq (FGI) ở miền nam Iraq. Trong một thời gian dài, đường ống duy nhất có thể xuất khẩu dầu từ Iraq sang phương Tây là Đường ống Iraq-Thổ Nhĩ Kỳ (ITP) do chính quyền khu vực bán tự trị người Kurd ở Iraq kiểm soát. Nhưng đằng sau đó là thực tế rằng Rosneft đã đảm bảo được ảnh hưởng của mình trong khu vực ngay sau 'Cuộc trưng cầu dân ý độc lập của người Kurd Iraq' bất thường vào tháng 9 năm 2017, thông qua ba thỏa thuận sâu rộng với chính phủ của người Kurd Iraq. Khu vực Tan (KRG). Thứ nhất, Nga đã cấp cho KRG 1,5 tỷ đô la tài chính thông qua các hợp đồng bán dầu kỳ hạn phải trả trong vòng ba đến năm năm tới. Thứ hai, Nga nắm giữ 80% cổ phần hoạt động tại năm lô dầu tiềm năng lớn trong khu vực. Và thứ ba, Nga đã thiết lập quyền sở hữu 60% đối với đường ống ITP quan trọng thông qua cam kết đầu tư 1,8 tỷ đô la để tăng công suất lên một triệu thùng mỗi ngày. Đây chính là Đường ống Kirkuk-Ceyhan ban đầu, bao gồm hai đường ống, có công suất thiết kế là 1,6 triệu thùng mỗi ngày (bpd). Công suất xuất khẩu của đường ống do FGI kiểm soát đạt từ 250.000 đến 400.000 bpd khi hoạt động bình thường, mặc dù nó thường xuyên bị phá hoại bởi các nhóm phiến quân thuộc nhiều loại khác nhau. Để đáp trả các cuộc tấn công thường xuyên vào đường ống FGI, KRG đã hoàn thành đường ống đơn Taq-Khurmala-Kirkuk/Ceyhan tại thị trấn biên giới Fishkhabur. Đây là một phần trong nỗ lực nâng xuất khẩu dầu lên trên 1 triệu thùng/ngày, sau này được hậu thuẫn trong thỏa thuận với Rosneft.
Tuy nhiên, như được tiết lộ sau đó bởi nguồn tin từ Điện Kremlin cùng nhiều nguồn khác, việc Nga giành được ảnh hưởng như vậy đối với khu vực Kurdistan thuộc Iraq chỉ là một phần nhỏ trong kế hoạch tổng thể nhằm mở rộng ảnh hưởng này ra toàn bộ Iraq. Chiến lược chủ yếu của Nga để thực hiện điều này đã được thể hiện trong quy trình vận hành tiêu chuẩn trong chính sách đối ngoại của mình, cụ thể là gây ra hỗn loạn trên thực địa trước khi dễ dàng can thiệp vào vai trò "người hòa giải" giữa các phe phái mới nổi mà họ đã tạo ra. Thuận lợi cho Moscow, một cơ chế hoàn hảo đã được thiết lập để họ có thể sử dụng ảnh hưởng xấu của mình dưới hình thức thỏa thuận "Thanh toán Ngân sách cho Dầu mỏ" đầy bi quan năm 2014. Theo đó, KRG đồng ý xuất khẩu một lượng dầu nhất định từ các mỏ dầu của mình và Kirkuk thông qua Tổ chức Tiếp thị Dầu mỏ Nhà nước Iraq (SOMO) và không được tự ý bán dầu từ các mỏ này trên thị trường quốc tế. Đổi lại, FGI tại Baghdad sẽ trích một khoản nhất định từ ngân sách trung ương Iraq để thanh toán cho KRG. Con số ban đầu được hai bên thống nhất là 550.000 thùng dầu/ngày từ phía KRG cho Chính phủ Liên bang tại Baghdad và 17% ngân sách liên bang sau khi trừ chi phí quốc gia (khoảng 500 triệu đô la Mỹ vào thời điểm đó) mỗi tháng từ phía Baghdad cho KRG. Do tính chất bất đồng giữa hai bên, khả năng thỏa thuận này diễn ra suôn sẻ là khoảng 50%, nhưng với sự tham gia của Nga thì khả năng này bằng không.
Ngay sau khi các thỏa thuận của Rosneft được ký kết vào năm 2017, Moscow đã thông qua KRG khẳng định rằng dòng dầu chảy qua đường ống Kirkuk-Ceyhan sẽ không được khởi động lại cho đến khi phí vận chuyển đường ống và thuế bơm được thanh toán cho công ty Nga. Moskva cũng muốn FGI tại Baghdad xem xét lại quyết định coi việc KRG giao cho Rosneft năm lô thăm dò tại lãnh thổ người Kurd mà họ nắm giữ 80% cổ phần là "không hợp lệ". Vào thời điểm đó, ước tính các lô này có tổng trữ lượng 3P là 670 triệu thùng. Dưới thời chính quyền FGI của Thủ tướng Haider al-Abadi, các dấu hiệu cho thấy một số thỏa thuận về yêu cầu của Rosneft và KRG có thể sắp được thực hiện. Đã có một số động thái về tỷ lệ phần trăm cho khoản bồi thường ngân sách, tăng từ mức dưới 13% như đã được đề xuất trước đó tại Baghdad. Cũng đã có sự phê chuẩn về ý tưởng rằng Baghdad sẽ trả lại một lượng dầu đáng kể cho Kurdistan để lọc dầu tại địa phương, và thậm chí đã thừa nhận rằng một mức thuế bơm dầu có thể được trả cho Rosneft. Vào thời điểm đó, Bộ trưởng Dầu mỏ Jabar al-Luaibi thậm chí còn tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận Rosneft ngay tại trung tâm dầu mỏ Kirkuk, nhấn mạnh rằng Baghdad không muốn đóng cửa trước bất kỳ ai "muốn giúp đỡ". Điều kiện duy nhất lúc đó là Rosneft phải hợp tác với BP, điều này dường như không phải là một yêu cầu quá khó khăn vì BP sở hữu 19,75% cổ phần của Rosneft. Tuy nhiên, sau đó, hai công ty đã đi theo con đường riêng của mình, khiến FGI và KRG vẫn còn tranh cãi về thỏa thuận "Thanh toán Ngân sách cho Dầu mỏ", cuối cùng dẫn đến việc đóng cửa hoàn toàn ITP vào tháng 3 năm 2023. Triển vọng cho việc tái khởi động gần đây của công ty này dường như tươi sáng hơn sau mỗi lần giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực của Nga tại quốc gia này.
Cụ thể, Rosneft hiện đã giảm cổ phần tại Công ty Đường ống Kurdistan (KPC) từ 60% mà họ mua lại vào năm 2017 xuống còn 49%. KPC là đơn vị vận hành chính của mạng lưới đường ống nhánh trong khu vực người Kurd ở Iraq, kết nối các mỏ dầu (như Taq Taq và Tawke) với trạm đo lường biên giới tại Fishkhabur. Tại Fishkhabur, đường ống này được kết nối với hệ thống ITP chính. Điều này diễn ra sau khi Hoa Kỳ, Châu Âu và Anh gần đây nhắm mục tiêu vào các lệnh trừng phạt đối với công ty dầu khí số một của Nga là Rosneft và công ty lớn thứ hai là Lukoil, cũng áp dụng cho bất kỳ thực thể nào mà các công ty này nắm giữ hơn 50% cổ phần. Giữa hai công ty này, Nga xuất khẩu khoảng 3,1 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, nguồn cung mà phương Tây coi là thiết yếu đối với khả năng tiếp tục tài trợ cho cuộc chiến của Nga tại Ukraine. Về phần mình, Lukoil đã đầu hàng trước áp lực ngày càng gia tăng của phương Tây, thậm chí còn nhanh hơn cả Rosneft, rút khỏi mỏ dầu West Qurna 2 khổng lồ của Iraq và các mỏ tại Lô 10 gần như ngay lập tức. Động thái rút lui này được các nguồn tin pháp lý và năng lượng cấp cao ở Washington, London và Brussels coi là một "bước ngoặt lớn" trong cuộc chiến chống lại các động thái ngày càng táo bạo của Nga và Trung Quốc đối với các đồng minh.
Nguồn tin: xangdau.net






















