Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Thổ Nhĩ Kỳ đặt mục tiêu xóa bỏ sự thống trị về khí đốt của Nga-Iran. Liệu có thể thực hiện được?

Từng phụ thuộc hoàn toàn vào khí đốt tự nhiên từ Nga và Iran, Thổ Nhĩ Kỳ đang tiến hành một cuộc cải cách chiến lược đối với ngành khí đốt tự nhiên, có thể giảm đáng kể sự phụ thuộc vào hai quốc gia này, vốn bị phương Tây coi là những kẻ bị ruồng bỏ. Thổ Nhĩ Kỳ không chỉ ký kết một loạt các hợp đồng LNG kéo dài nhiều năm với nhiều nhà cung cấp mà còn đang tìm cách thúc đẩy sản xuất trong nước, một động thái có thể khiến Nga và Iran mất đi một trong những khách hàng mua khí đốt tự nhiên và dầu thô lớn nhất của họ chỉ trong vài năm ngắn ngủi. Thổ Nhĩ Kỳ là thị trường lớn cuối cùng của Nga tại châu Âu sau khi phần còn lại của lục địa này phần lớn từ bỏ khí đốt của Nga để chuyển sang khí đốt qua đường ống từ Na Uy và LNG từ Hoa Kỳ. Hai hợp đồng chính của Thổ Nhĩ Kỳ với Nga, tổng cộng 22 bcm/năm, sẽ hết hạn trong vài năm tới, trong khi hợp đồng cung cấp 10 bcm/năm của Iran sẽ kết thúc vào năm 2026.

Thổ Nhĩ Kỳ đã xây dựng được công suất nhập khẩu LNG 58 bcm/năm - đủ đáp ứng nhu cầu của đất nước - bao gồm các cảng nổi tại Dörtyol và Saros. Điều này sẽ giúp nước này định tuyến lại và thậm chí tái xuất LNG sang châu Âu, định vị mình là một trung tâm trong khu vực. Vào tháng 9, công ty năng lượng nhà nước BOTA đã ký một thỏa thuận 20 năm với Mercuria để nhập khẩu khoảng 4 bcm/năm LNG của Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 2026. Con số này sẽ đạt khoảng 70 bcm trong hai thập kỷ tới. BOTA cũng đã ký một thỏa thuận sơ bộ riêng với Woodside Energy (NYSE:WDS) của Úc, theo đó sẽ bổ sung khoảng 5,8 bcm trong chín năm, bắt đầu từ năm 2030. Trong khi đó, Ankara cũng đang thúc đẩy sản xuất trong nước. Công ty Dầu khí Nhà nước TPAO hiện đang khai thác các mỏ khí đốt mới, kể cả ở Biển Đen, để cung cấp cho lưới điện quốc gia.

Phương pháp tiếp cận kép này là một cột mốc quan trọng đối với an ninh năng lượng của Thổ Nhĩ Kỳ, và dự kiến ​​sẽ tăng tổng lượng nhập khẩu LNG theo hợp đồng và sản lượng trong nước thêm hơn 26 bcm/năm vào năm 2028, so với mức khoảng 15 bcm hiện nay. Điều này có nghĩa là Thổ Nhĩ Kỳ sẽ chỉ cần khoảng 26 bcm khí đốt qua đường ống vào năm 2028, thấp hơn nhiều so với mức 41 bcm mà nước này hiện đang mua từ Nga, Iran và Azerbaijan. Về phần mình, Iran thậm chí có thể còn gặp khó khăn hơn. Xuất khẩu khí đốt là nguồn thu nhập chính của Iran vì nước này không bị phương Tây trừng phạt. Việc mất Thổ Nhĩ Kỳ sẽ làm mất đi phần lớn nguồn thu xuất khẩu khí đốt của Iran, và việc chuyển hướng sang các nước như Pakistan có thể sẽ gặp nhiều thách thức do thiếu cơ sở hạ tầng đường ống hoặc LNG.

Mặc dù cách tiếp cận mới của Thổ Nhĩ Kỳ một phần xuất phát từ nhu cầu tăng cường an ninh năng lượng, nhưng áp lực từ Hoa Kỳ và phương Tây cũng đóng một vai trò nhất định. Tháng trước, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã thẳng thắn kêu gọi Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdoğan ngừng mua dầu khí từ Nga. G7 đã ra tuyên bố chung ngay sau đó, cho rằng đã đến lúc "tối đa hóa áp lực lên xuất khẩu dầu của Nga". Tuy nhiên, việc Ankara chấm dứt quan hệ với Moscow sẽ không hề dễ dàng hay đơn giản. Thổ Nhĩ Kỳ đã mua tới hai phần ba lượng dầu nhập khẩu từ Nga với mức chiết khấu cao tới 15% kể từ khi chiến tranh nổ ra ở Ukraine, giúp nước này tiết kiệm hàng tỷ đô la chi phí nhập khẩu và góp phần giảm lạm phát. Điều tương tự cũng đúng với khí đốt tự nhiên, với việc Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu hơn 40% lượng khí đốt từ Nga với mức giá tương đối cạnh tranh. Erdoğan đã khéo léo cân bằng thay vì hoàn toàn bất chấp hoặc chấp thuận Washington bằng cách âm thầm đa dạng hóa và xoa dịu Điện Kremlin.

Quan hệ với Châu Phi

Trong khi đó, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang hướng đến Châu Phi nhằm đa dạng hóa hơn nữa và tăng cường an ninh năng lượng. Gần đây, Bloomberg đưa tin Thổ Nhĩ Kỳ sẽ điều tàu nghiên cứu Oruc Reis dài 86 mét đến thăm dò các lô dầu khí ngoài khơi thuộc Somalia. Thổ Nhĩ Kỳ đã thiết lập sự hiện diện tại Somalia, một quốc gia đang chìm trong chiến tranh, nơi họ vận hành căn cứ quân sự lớn nhất ở nước ngoài, trong khi các công ty Thổ Nhĩ Kỳ quản lý cảng và sân bay của thủ đô. Công ty máy bay không người lái Baykar của Thổ Nhĩ Kỳ đã cung cấp cho Somalia một số lượng chưa xác định mẫu máy bay không người lái TB2, mở rộng cuộc tấn công của nước này chống lại nhóm Hồi giáo al-Shabaab. Đầu năm nay, Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ đã thông qua đề xuất của Tổng thống Erdogan về việc gửi hỗ trợ hải quân đến vùng biển Somalia trong bối cảnh nạn cướp biển gia tăng liên quan đến tình hình bất ổn ở Biển Đỏ.

Theo Bộ Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ, trong thập kỷ qua, Thổ Nhĩ Kỳ đã viện trợ cho Somalia hơn 1 tỷ đô la. Mặc dù con số này có vẻ không lớn, nhưng hãy cân nhắc rằng Somalia là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, với GDP chỉ hơn 10 tỷ đô la. Tuy nhiên, Somalia chỉ là bệ phóng cho Thổ Nhĩ Kỳ trong nỗ lực mở rộng tầm ảnh hưởng tại lục địa này.

Đầu năm nay, một phái đoàn do Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ Hakan Fidan dẫn đầu đã đến thăm Niger và ký kết một loạt thỏa thuận sau khi chính quyền quân sự nước này ra lệnh cho Hoa Kỳ đóng cửa căn cứ quân sự và trục xuất quân đội Pháp. Niger vừa nối lại hoạt động xuất khẩu dầu mỏ sau khi đạt được thỏa thuận với quốc gia láng giềng Benin sau một cuộc tranh chấp biên giới gần đây. Niger dừng xuất khẩu dầu mỏ. Các chuyến hàng dầu thô đã giảm mạnh vào tháng 6 sau khi quốc gia Tây Phi này đóng cửa đường ống do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) vận hành, nối mỏ dầu Agadem với cảng Sèmè Kpodji ở Benin.

Nguồn tin: xangdau.net

ĐỌC THÊM