Những khái niệm về năng lượng tái tạo và giảm khí thải nhà kính rất hay ho, nhưng giá năng lượng đắt đỏ đang buộc Châu Âu phải thay đổi các ưu tiên.
Tuần này, Reuters đưa tin hai thành viên của Liên minh Châu Âu — Hy Lạp và Ý — cùng với Vương quốc Anh đang nới lỏng sự phản đối đối với việc khoan dầu khí mới, ngay cả khi lục địa này đang phát triển năng lượng tái tạo để cắt giảm khí thải nhà kính và đáp ứng các mục tiêu về khí hậu.
Vào tháng 11, Hy Lạp đã cấp giấy phép thăm dò dầu khí ngoài khơi đầu tiên sau hơn 40 năm cho ba công ty, trong đó có Exxon Mobil. Giấy phép Lô 2 tại Biển Ionian có thể chứa tới 200 tỷ mét khối khí đốt; hoạt động khoan dự kiến sẽ bắt đầu vào cuối năm 2026 hoặc 2027.
Reuters cho biết quốc gia này cũng đã trao quyền thăm dò cho Chevron và Helleniq Energy tại các lô phía nam bán đảo Peloponnese.
Chính phủ Ý cũng đang xem xét khôi phục hoạt động thăm dò dầu khí ngoài khơi, vốn đã bị gác lại vào năm 2019.
Và tại Anh, tuần trước, chính phủ nước này đã nới lỏng lệnh cấm hoạt động thăm dò mới ở Biển Bắc; các công ty sẽ được phép mở rộng sản xuất tại các mỏ hiện có. Reuters cho biết chính phủ dự kiến sẽ phê duyệt cho hai mỏ mới quan trọng trong những tháng tới.
Trong khi đó, một phát hiện lớn ở Ba Lan đầu năm nay đã khơi dậy sự quan tâm đến các mỏ ngoài khơi của quốc gia này, trong khi tại Na Uy, công ty nhà nước Equinor có kế hoạch khoan 250 giếng thăm dò trong thập kỷ tới.
Các quốc gia thành viên EU đi ngược lại xu hướng này bao gồm Đan Mạch, quốc gia đã cấm mọi hoạt động thăm dò mới vào năm 2020; và Hà Lan, nước đã hủy bỏ các mỏ khí mới trên đất liền vào năm 2023 nhưng vẫn cho phép thăm dò ngoài khơi.
Sự thay đổi chiến lược do cú sốc năng lượng năm 2022 khi Nga xâm lược Ukraine đồng nghĩa với việc khí đốt tự nhiên có thể sẽ là một phần trong mô hình năng lượng của châu Âu trong nhiều thập kỷ.
Reuters cho biết Liên minh châu Âu phụ thuộc vào nhập khẩu khí đốt cho 85% nhu cầu tiêu thụ, theo Eurostat, so với mức đỉnh điểm sản lượng trong nước là 50% nhu cầu vào những năm 1990.
Quốc gia nhập khẩu khí đốt hàng đầu hiện nay là Hoa Kỳ. Một bài báo của Reuters vào tháng 10 cho biết Mỹ sẽ cung cấp khoảng 70% LNG cho châu Âu trong giai đoạn 2026-2029, tăng từ mức 58% từ đầu năm cho đến nay, khi EU có kế hoạch cấm khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Nga từ năm 2027 và khí đốt Nga từ năm 2028, các nhà phân tích của Energy Aspects cho biết.
Hiện nay, Hoa Kỳ chiếm 16,5% tổng lượng tiêu thụ khí đốt của EU.
Điều quan trọng cần lưu ý là, bất chấp các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga, EU vẫn mua rất nhiều khí đốt từ nước này. Trên thực tế, EU là nơi nhập khẩu LNG lớn thứ hai của Nga vào năm 2024. EU đã áp đặt một số lệnh trừng phạt đối với các sản phẩm năng lượng của Nga kể từ khi chiến tranh bắt đầu, nhưng không áp dụng đối với khí đốt tự nhiên được cung cấp để các quốc gia thành viên sử dụng trực tiếp (cả qua đường ống lẫn LNG), theo Cipher News.
Sự phụ thuộc của châu Âu vào LNG của Mỹ đang gia tăng do lượng dự trữ giảm và lưu lượng qua đường ống từ Nga và Algeria giảm. Châu Âu sẽ cần nhập khẩu thêm tới 160 chuyến LNG trong mùa đông này. Lượng LNG nhập khẩu sẽ tăng từ 820 tàu chở dầu trong năm nay so với 660 tàu của năm ngoái, chiếm 48% tổng nguồn cung khí đốt của EU, Reuters cho biết.
Việc khai thác các nguồn năng lượng trong nước có thể làm giảm sự phụ thuộc của châu Âu vào nhập khẩu khí đốt và có khả năng giảm chi phí nhiên liệu nước ngoài. Theo Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính (IEEFA), EU đã chi khoảng 225 tỷ euro cho việc nhập khẩu LNG trong ba năm qua, bao gồm 100 tỷ euro cho khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Mỹ. Con số khủng này một phần là do LNG của Mỹ đắt hơn đối với người mua EU so với LNG từ bất kỳ nhà cung cấp nào khác.
Nhưng vì một vài lý do, động thái thúc đẩy an ninh năng lượng này lại gây khó hiểu.
Thứ nhất, nó mâu thuẫn với các tham vọng khí hậu dài hạn của châu Âu. Cả EU và Anh đều đặt mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon vào năm 2050 bằng cách mở rộng năng lượng tái tạo và loại bỏ dần nhiên liệu hóa thạch.
IEEFA lập luận rằng sự phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên có thể khiến EU bỏ lỡ mục tiêu năm 2040 là giảm 90% lượng khí thải nhà kính ròng so với năm 1990.
IEEFA cũng lưu ý rằng chi phí bình quân gia quyền của các dự án điện mặt trời quy mô tiện ích ở châu Âu đã giảm hơn một nửa trong thập kỷ qua. Tổ chức này cho biết thêm rằng chi phí cho điện gió trên bờ và ngoài khơi cũng đã giảm đáng kể.
Thứ hai, nó dường như mâu thuẫn với lời hứa mà EU đã đưa ra hồi đầu năm nay về việc mua thêm LNG của Mỹ. Chính quyền Trump và khối này đã đạt được một thỏa thuận thương mại, theo đó EU cam kết mua 250 tỷ đô la trong các sản phẩm năng lượng của Mỹ (chủ yếu là LNG) mỗi năm trong ba năm tới, tổng cộng là 750 tỷ đô la vào năm 2028. Đổi lại, Mỹ đã giảm thuế đối với hàng hóa của EU từ 30% xuống 15% và đảm bảo thêm 600 tỷ đô la đầu tư phi năng lượng từ EU.
IEEFA cho biết con số 250 tỷ đô la hàng năm là không thực tế và có nguy cơ đặt quá nhiều sự phụ thuộc vào một nhà cung cấp, như là Mỹ:
Để đáp ứng cam kết mua 250 tỷ đô la Mỹ (215 tỷ euro) sản phẩm năng lượng từ Hoa Kỳ mỗi năm, EU sẽ cần nhập khoảng 70% lượng năng lượng nhập khẩu từ quốc gia này. Thỏa thuận này về cơ bản ràng buộc nguồn cung năng lượng của khối với một nhà cung cấp duy nhất.
Trong khi đó, Hoa Kỳ đang xuất khẩu LNG với khối lượng kỷ lục.
Chính phủ liên bang đang xem xét các bước tiếp theo để đẩy nhanh việc xây dựng cơ sở hạ tầng xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng khi lưu lượng khí đốt tự nhiên đến các nhà máy LNG đạt mức cao kỷ lục.
Chủ tịch Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang đã công bố những thay đổi sắp tới trong Tuyên bố có đoạn viết: "Cơ sở hạ tầng năng lượng cần được xây dựng ngay bây giờ".
Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (FERC) dự đoán rằng nếu tất cả các cơ sở LNG hiện đang được lên kế hoạch xây dựng được hoàn thành, công suất hóa lỏng của Hoa Kỳ sẽ tăng gấp đôi.
Tin tức của FERC trùng khớp với dữ liệu cho thấy Hoa Kỳ đang trên đà đạt kỷ lục xuất khẩu LNG trong tháng này khi châu Âu đang tích trữ bất kỳ lượng khí đốt nào có sẵn trước mùa đông.
Nguồn tin: xangdau.net






















