Tuần trước, Ủy viên châu Âu phụ trách Năng lượng, Dan Jørgensen, tuyên bố Liên minh châu Âu (EU) gồm 27 quốc gia thành viên sẽ “không bao giờ quay trở lại sự phụ thuộc nguy hiểm vào Nga”. Ông nói thêm: “Chúng ta sẽ không bao giờ quay trở lại với nguồn cung không ổn định và thao túng thị trường, và chúng ta sẽ không bao giờ quay trở lại với tình trạng tống tiền năng lượng và sự phụ thuộc kinh tế”. Tuyên bố này được đưa ra sau khi toàn bộ EU đạt được thỏa thuận vào ngày 3 tháng 12 về “Lộ trình REPowerEU”, trong đó Chủ tịch EU Ursula von der Leyen nhấn mạnh rằng kế hoạch này cho phép châu Âu: “Bước vào kỷ nguyên độc lập năng lượng hoàn toàn khỏi Nga vì từ Hôm nay, chúng ta sẽ chấm dứt vĩnh viễn việc nhập khẩu này”. Bà nhấn mạnh: “Bằng cách làm cạn kiệt nguồn tài chính của Tổng thống Nga Vladimir Putin, chúng ta sát cánh cùng Ukraine và hướng tới các quan hệ đối tác năng lượng mới và các cơ hội cho ngành này”.
Thỏa thuận này chứa đựng các thời hạn có tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế Nga. Quan trọng nhất là lệnh cấm nhập khẩu khí đốt từ Nga vào EU, vốn từ lâu đã mang lại nguồn thu khổng lồ cho nước này và tạo cho Nga đòn bẩy chính trị lớn đối với châu Âu. Tất cả các hoạt động nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) sẽ chấm dứt vào ngày 31 tháng 12 năm 2026 và khí đốt qua đường ống sẽ ngừng vào ngày 30 tháng 9 năm 2027. Đối với các hợp đồng ngắn hạn được ký kết trước ngày 17 tháng 6 năm 2025, lệnh cấm nhập khẩu LNG của Nga có hiệu lực từ ngày 25 tháng 4 năm 2026 và đối với khí đốt qua đường ống từ ngày 17 tháng 6 năm 2026. Đối với các hợp đồng LNG dài hạn được ký kết trước ngày 17 tháng 6 năm 2025, lệnh cấm có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2027, phù hợp với gói trừng phạt thứ 19. Việc nhập khẩu khí đốt qua đường ống theo hợp đồng dài hạn chỉ được phép cho đến ngày 30 tháng 9 năm 2027.
Các biện pháp bảo vệ mạnh mẽ chống lại việc lách luật cũng có trong thỏa thuận. Các điều khoản nhằm tăng cường tính minh bạch, giám sát và truy xuất nguồn gốc khí đốt của Nga trong thị trường EU sẽ hỗ trợ việc thực hiện lệnh cấm nhập khẩu. Trong giai đoạn chuyển tiếp, việc cấp phép trước sẽ yêu cầu thông tin chi tiết để đảm bảo nhập khẩu được giới hạn ở khối lượng dựa trên các hợp đồng trước đó. Để ngăn chặn khí đốt của Nga xâm nhập thông qua các quốc gia khác, các nhà nhập khẩu phải cung cấp thông tin về quốc gia sản xuất. Các biện pháp chống gian lận này sẽ được thực hiện song song với Cơ quan Hợp tác các Cơ quan Quản lý Năng lượng của EU, Văn phòng Công tố Châu Âu và Văn phòng Chống Gian lận Châu Âu. Các thủ tục tương tự sẽ được áp dụng cho việc nhập khẩu dầu của Nga vào EU – tất cả sẽ chấm dứt vào năm 2027.
Điều này đánh dấu một sự thay đổi đáng kể so với tình hình ngay sau cuộc xâm lược Ukraine của Nga ngày 24 tháng 2 năm 2022. Hoa Kỳ và Anh rõ ràng nhận thấy rằng khả năng tiến hành chiến tranh lâu dài của Moscow sẽ phụ thuộc vào khả năng tài chính của nước này, và một nguồn thu quan trọng cho việc này là doanh thu đến từ việc xuất khẩu khí đốt và dầu mỏ sang châu Âu. Hơn nữa, Washington và London tin rằng việc EU không sẵn lòng áp đặt các biện pháp trừng phạt đáng kể đối với Nga khi nước này xâm lược quốc gia độc lập có chủ quyền Georgia năm 2008 là nguyên nhân chính dẫn đến việc EU xâm lược Ukraine năm 2014 và sáp nhập vùng Crimea. Và họ tin rằng việc EU không hành động một cách có ý nghĩa nào để chống lại Moscow vào thời điểm đó là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc xâm lược toàn diện Ukraine năm 2022.
Do đó, Mỹ và Anh biết rằng họ sẽ cần sự hỗ trợ của Đức - quốc gia lãnh đạo kinh tế và chính trị trên thực tế của EU. Tuy nhiên, Đức đã xây dựng phần lớn sự thịnh vượng kinh tế của mình kể từ năm 1999 dựa trên nguồn cung năng lượng dồi dào và giá rẻ từ Nga và từ việc phá giá hiệu quả đồng mark Đức so với đồng euro yếu hơn. Đức cũng từ lâu đã phản đối điều mà họ coi là sự can thiệp từ Mỹ vào công việc nội bộ của mình, điều này càng trầm trọng hơn bởi những tiết lộ của Edward Snowden năm 2013 về việc Washington do thám Đức. Sau đó, Berlin đã đi đầu trong một số sáng kiến của EU nhằm né tránh các lệnh trừng phạt chủ yếu do Mỹ dẫn đầu đối với Iran trước năm 2018, đặc biệt là trong giai đoạn tăng cường trừng phạt từ năm 2011/2012. Ngay sau khi Mỹ tuyên bố rút khỏi thỏa thuận hạt nhân vào tháng 5 năm 2018, Đức đã đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến EU để áp đặt "Điều khoản ngăn chặn" (Blocking Statute), khiến các công ty EU không được phép tuân theo các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran.
Cùng thời điểm đó, Ngoại trưởng Đức lúc bấy giờ, Sigmar Gabriel, đã cảnh báo: "Chúng ta cũng phải nói với người Mỹ rằng hành vi của họ về vấn đề Iran sẽ đẩy chúng ta, người châu Âu, đứng về phíaa Nga và Trung Quốc chống lại Mỹ." Ngay sau đó, Đức là một nhân tố chủ chốt trong việc EU giới thiệu một cơ chế đặc biệt – "Công cụ hỗ trợ trao đổi thương mại" (Instrument in Support of Trade Exchanges) – hoạt động như một trung tâm thanh toán bù trừ cho các khoản thanh toán giữa Iran và các công ty EU. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi mối quan tâm chính của Berlin sau cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 của Nga là đảm bảo rằng Berlin - và các nước EU khác - có thể đáp ứng yêu cầu ngày 31 tháng 3 năm 2022 từ Tổng thống Putin, yêu cầu người mua EU phải thanh toán bằng rúp. Đối với khí đốt của Nga thông qua một cơ chế chuyển đổi tiền tệ mới hoặc đối mặt với nguy cơ bị dừng nguồn cung. Chỉ sau khi Mỹ tìm được nguồn cung khí đốt tạm thời thay thế, Đức mới dần dần tham gia vào việc tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với Nga.
Mặc dù ban đầu còn do dự trong việc trừng phạt Nga vì động thái hướng về phía Tây vào châu Âu – điều mà Washington và London tin là khúc dạo đầu cho sự “thống nhất” hoàn toàn đế chế Xô Viết cũ của Nga, như Tổng thống Putin đã ám chỉ – EU đã tăng cường đáng kể áp lực trừng phạt đối với Nga trong những tháng gần đây, cùng với Mỹ. Vào đầu cuộc chiến Ukraine, EU đã trả cho Nga hơn 12 tỷ euro mỗi tháng cho việc nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch, theo dữ liệu của EU. Con số này hiện đã giảm xuống còn 1,5 tỷ euro. Gói trừng phạt thứ 19 được chính thức thông qua vào ngày 23 tháng 10 bao gồm các biện pháp bổ sung nhắm vào hạm đội tàu ‘chui’ của Nga được sử dụng để lách các hạn chế hiện hành. Và lần đầu tiên, EU cũng nhắm vào lĩnh vực khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) quan trọng của Nga. Chúng cũng phản ánh các biện pháp trừng phạt trực tiếp trước đó của Mỹ đối với hai công ty dầu khí lớn nhất và lớn thứ hai của Nga – là Rosneft và Lukoil. Hai công ty này xuất khẩu khoảng 3,1 triệu thùng dầu mỗi ngày, mà phương Tây coi là rất quan trọng đối với khả năng tài trợ cho cuộc chiến ở Ukraine của Nga. Việc nhắm mục tiêu vào hai công ty dầu khí hàng đầu của Nga là một bước tiến lớn so với các đợt trừng phạt trước đó bao gồm các công ty cấp thấp hơn như Gazpromneft và Surgutneftegas, vốn là một phần trong chiến lược “siết chặt” dần dần của Washington đối với Putin.
Những biện pháp trừng phạt mới nhất từ EU phối hợp với Mỹ không chỉ giáng một đòn mạnh hơn vào tài chính của Nga mà còn làm suy yếu đáng kể khả năng thể hiện sức mạnh của nước này trên khắp Trung Đông, khu vực được Washington và London coi là khu vực địa chính trị quan trọng đối với nguồn cung năng lượng trong các cuộc xung đột tương lai với Nga và Trung Quốc. Cụ thể, Lukoil gần như ngay lập tức tuyên bố rút khỏi mỏ dầu West Qurna 2 khổng lồ và các tài sản thuộc Lô 10 của Iraq, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc phản công của phương Tây chống lại các động thái ngày càng gây hấn của Nga và Trung Quốc đối với các đồng minh trong nước. Hơn nữa, việc Lukoil rút khỏi các khu vực dầu khí lớn của Iraq mở ra những cơ hội mới cho các công ty phương Tây mở rộng ảnh hưởng trên khắp Iraq. Sau đó, Rosneft cũng làm theo, tuyên bố thu hẹp quy mô hoạt động của mình tại khu vực Kurdistan có vị trí chiến lược quan trọng của Iraq. Gã khổng lồ dầu mỏ Nga đã giảm cổ phần của mình trong Công ty Đường ống Kurdistan từ 60% mà họ mua lại vào năm 2017 xuống còn 49%. KPC là nhà điều hành chính của mạng lưới đường ống dẫn dầu trong khu vực Kurdistan của Iraq, kết nối các mỏ dầu (như Taq Taq và Tawke) với trạm đo lường biên giới tại Fishkhabur. Tại Fishkhabur, đường ống này kết nối với hệ thống đường ống chính Iraq-Thổ Nhĩ Kỳ.
Các lệnh trừng phạt mới nhất của EU đối với Nga hiện cũng bao gồm việc nhắm mục tiêu vào các thực thể có liên hệ với Trung Quốc, quốc gia ủng hộ mạnh mẽ Nga và cũng là một khách hàng lớn mua năng lượng của nước này. Gói trừng phạt thứ 19 đối với Nga nêu rõ: “Chúng tôi đề xuất các biện pháp tiếp theo đối với các thực thể Trung Quốc hỗ trợ ngành công nghiệp quân sự của Nga.” Gói trừng phạt này cũng cho biết thêm: “Các lệnh trừng phạt mới này cũng sẽ siết chặt khả năng tiếp cận của Nga với các công nghệ bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu không gian địa lý, cũng như các nguồn lực quan trọng phục vụ sản xuất vũ khí. Điều này bao gồm cả những nguồn lực nhận được từ các nhà cung cấp nước ngoài, trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ.” Chủ tịch Ủy ban châu Âu von der Leyen cũng tuyên bố trong cuộc họp báo kèm theo thông báo về gói trừng phạt rằng: “Chúng tôi nhắm mục tiêu vào các nhà máy lọc dầu, các công ty kinh doanh dầu mỏ, các công ty hóa dầu ở các nước thứ ba, trong đó có Trung Quốc.” Đồng thời, người đứng đầu chính sách đối ngoại của EU, Kaja Kallas, đã đăng trên mạng xã hội rằng: “Chúng tôi đang bổ sung thêm vào danh sách các hóa chất, linh kiện kim loại, muối và quặng vào lệnh cấm xuất khẩu và siết chặt kiểm soát xuất khẩu đối với các thực thể từ Nga cũng như Trung Quốc và Ấn Độ.” Như một nguồn tin cấp cao trong tổ chức an ninh của EU đã tiết lộ độc quyền với OilPrice.com tuần trước: “Chúng tôi và Washington đã nói rằng chúng tôi sẽ tiếp tục siết chặt vòng vây đối với Putin và đó là những gì chúng tôi đã làm.”
Nguồn tin: xangdau.net






















