Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Hàng hóa thế giới sáng 18-4: Brent tiếp tục giảm sâu, đồng cũng giảm thêm

  • Một số hàng hóa giảm giá trở lại như dầu và đồng
  • Brent giảm sâu hơn nữa, xuống dưới 98 USD
  • Đồng London gần chạm 7.000 USD/tấn
  • Bông, khí gas tăng, lúa mì và đậu tương tăng nhẹ

Giá dầu và đồng giảm trở lại xuống mức thấp nhất nhiều tháng mặc dù một số thị trường khác hồi phục.

Dầu giảm hơn nữa, với dầu Brent tại London xuống mức thấp nhất 9 tháng, dưới 98 USD/thùng, còn dầu thô Mỹ thấp nhất 4 tháng là gần 86 USD.

Trên thị trường đồng, hợp đồng giao sau 3 tháng hướng tới mức hỗ trợ 7.000 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất gần 18 tháng.

Vàng tăng trong bối cảnh giao dịch cầm chừng sau khi chạm mức thấp nhất 2 năm trong phiên giao dịch trước thúc đẩy hoạt động mua vào tại châu Á. Tuy nhiên, triển vọng giá vàng vẫn khó đoán bởi triển vọng kinh tế mờ mịt.

“Các nhà đầu tư vẫn rất lo ngại về khả năng suy thoái kinh tế và lạm phát”, ông Frank McGhee, nhà kinh doanh kim loại quý thuộc Integrated Brokerage Services ở New York cho biết.

Áp lực gây giảm giá dầu đến từ việc USD tăng giá, trở thành đồng tiền tăng mạnh nhất gần 1 năm so với euro. Đồng euro giảm bởi thông tin Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) cắt giảm lãi suất. Các dấu hiệu kinh tế bất ổn ở Anh và Canada càng ép tăng giá đồng USD.

Chỉ số Thomson Reuters-Jefferies CRB giảm 0,8% trong phiên giao dịch vừa qua. Giá đồng tại Mỹ giảm tới 4%, còn giá dầu tại Mỹ giảm 2% - những nhân tố chính làm giảm CRB.

Tuy nhiên, không phải hàng hóa nào cũng giảm giá. Bông và khí gas tăng trên 1%. Lúa mì và đậu tương cũng tăng, giúp ngăn CRB giảm mạnh.

Dầu giảm phiên thứ 6, đồng xuống mức thấp nhất kể từ 2011

Giá dầu đã giảm 6 phiên liên tiếp sau thông báo tồn trữ xăng ở Mỹ tuần qua tăng, mặc dù tồn trữ dầu thô giảm.

Dầu Brent giảm 2,22 USD xuống 97,69 USD/thùng, trong phiên có lúc xuống chỉ 97,26 USD, thấp nhất kể từ tháng 7-2012.

Dầu Brent đã có 10 phiên giảm giá trong số 12 phiên giao dịch vừa qua, mất gần 12%, là kỳ mất giá nhiều nhất kể từ tháng 6-2012. Cùng với các hàng hóa khác, giá dầu mất đà bởi những số liệu từ Trung Quốc – nước tiêu thụ dầu lớn thứ 2 thế giới – cho thấy tăng trưởng kinh tế quý 1 thấp hơn dự đoán.

Dầu thô Mỹ giảm 2,04 USD xuống 86,68 USD/thùng. Dầu thô Mỹ có lúc xuống chỉ 86,06 USD.

Đồng giảm hơn 3% sau khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế điều chỉnh giảm dự báo về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay và năm tới, gây lo ngại về triển vọng nhu cầu kim loại quý.

Ngoài ra, số liệu cho thấy bán xe ô tô ở châu Âu – nguồn tiêu thụ đồng chính – giảm 10,3% trong tháng 3 do kiinh tế suy giảm lan sang cả khu vực Bắc Âu vốn thịnh vượng.

Đồng tại London giá giảm 2,8% xuống 7.080 USD/tấn. Trong phiên có lúc giá chỉ 7.039 USD/tấn, thấp nhất kể từ tháng 10-2011.

Đồng – thứ kim loại sử dụng nhiều trong xây dựng – đã giảm giá trên 8% trong năm nay.

Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn liên tục biến động giữa tăng và giảm trước khi chốt phiên giảm nhẹ. Trên sàn Comex, giá vàng giao tháng 6 chốt phiên hôm qua giảm nhẹ 0,3% xuống còn 1.382,7 USD/oz.

Giá vàng được hỗ trợ khi chứng khoán Mỹ giảm. Chỉ số S&P 500 giảm tới 2% phiên hôm qua khi lợi nhuận các tập đoàn có dấu hiệu chậm lại.

Giá vàng xuống thấp nhất 2 năm phiên trước đó khiến dự trữ vàng của các ngân hàng trung ương mất tổng cộng 560 tỷ USD về giá trị. Doanh số bán vàng xu của Perth Mint của Australia tăng vọt sau khi giá vàng lao dốc. Trong khi đó, doanh số bán vàng xu của US Mint đạt 120.000 ounce kể từ đầu tháng 4, so với 62.000 ounce trong tháng 3.

Tại Ấn Độ, nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới, mức giảm giá có thể khiến vàng trở nên vừa túi tiền của người dân hơn, theo Mehul Choksi, chủ tịch nhà bán lẻ trang sức lớn nhất Ấn Độ Gitanjali Gems.

Giá vàng mất tổng cộng 18% kể từ đầu năm 2013, sau khi tăng 6 lần trong vòng 12 năm tính đến hết năm ngoái. Kim loại quý này rơi vào thị trường giá xuống kể từ ngày 12/4/2013, sau khi có thông tin cho rằng eurozone có thể bán vàng dự trữ để gây quỹ cứu trợ và Mỹ xem xét ngừng nới lỏng tiền tệ.

"Tôi không chắc rằng chúng ta đã chứng kiến mức đáy hay chưa, giá vàng có thể tiếp tục xuống dưới 1.300 USD/oz vì tâm lý thị trường còn khá bi quan", theo Frank Lesh, nhà giao dịch tại FuturePath Trading ở Chicago.

Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) 14 ngày của vàng hiện đạt 22,8 điểm, dưới mức 30 điểm - mức điểm các chuyên gia phân tích kỹ thuật coi là chỉ báo cho rằng giá sắp phục hồi. Chỉ số RSI dùng để đo độ mạnh hoặc độ yếu tương đối của một loại chứng khoán/hàng hóa khi nó tự so sánh với chính nó trong một khoảng thời gian nhất định (thường dùng là 14 ngày).

Lúc 8h50′ sáng nay, giá vàng SJC tại TPHCM niêm yết ở 40,3 – 41 triệu đồng/lượng (mua vào – bán ra), giảm 400 nghìn đồng/lượng so với chốt ngày hôm qua.

Giá vàng SJC niêm yết tại Hà Nội cũng mua vào ở 40,3 triệu đồng/lượng, bán ra ở 41,02 triệu đồng/lượng.

So với cuối tuần trước, giá vàng trong nước giảm 1,2 triệu đồng/lượng. Chênh lệch giá mua vào bán ra vẫn ở mức cao, hiện là 700 nghìn đồng/lượng.

Hôm qua, giá vàng trong nước đã có ngày biến động mạnh với biên độ 1,9 triệu đồng do giá vàng thế giới lao dốc xuống gần 1.320 USD/oz.

Lúc 6h18' sáng nay 18/4 giá vàng giao ngay trên Kitco đứng ở 1.377,5 USD/oz, tăng 8,2 USD so với giá chốt phiên trước đó.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

86,11

-0,60

-0,85%

Dầu Brent

USD/thùng

100,39

-0,54

-0,64%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

57.790,00

-2.060,00

-3,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,19

-0,03

-0,83%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

272,75

-0,34

-0,08%

Dầu đốt

US cent/gallon

273,35

-0,12

-0,16%

Dầu khí

USD/tấn

818,25

-7,25

-0,93%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

69.540,00

-2.420,00

-3,37%

Vàng New York

USD/ounce

1.368,90

-13,90

-1,14%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.328,00

-34,00

-1,01%

Bạc New York

USD/ounce

23,09

-0,22

-1,08%

Bạc TOCOM

JPY/g

73,00

-1,00

-1,49%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.413,15

-10,95

-0,72%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

655,90

-6,25

-1,11%

Đồng

US cent/lb

311,85

-8,20

-2,56%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

7.080,00

-220,00

-3,01%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.895,00

-19,00

-0,99%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

1.877,00

-19,00

-1,00%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

20.400,00

-720,00

-3,41%

Ngô

US cent/bushel

639,50

-1,50

-0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

709,25

+2,50

+0,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

376,00

-2,00

-0,53%

Gạo thô

USD/cwt

15,53

-0,08

-0,48%

Đậu tương

US cent/bushel

1.379,25

-1,00

-0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

399,40

+0,20

+0,03%

Dầu đậu tương

US cent/lb

49,36

-0,12

-0,22%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

626,50

-6,00

-0,98%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.317,00

+1,00

+0,04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

136,85

-0,40

-0,29%

Đường thô

US cent/lb

17,79

-0,08

-0,45%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

148,45

+0,30

+0,20%

Bông

US cent/lb

86,65

+1,23

+1,44%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

1.090,00

0,00

0,00%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

362,70

-0,10

-0,03%

Cao su TOCOM

JPY/kg

247,00

-7,40

-3,37%

Ethanol CME

USD/gallon

2,24

+0,03

+1,22%

Nguồn tin: Reuters, Bloomberg

ĐỌC THÊM