Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tại sao giá xăng Mỹ đang giảm?

Những câu trả lời đơn giản thì dễ, nhưng thường không chính xác. Những câu trả lời thực sự cần có bối cảnh và một chút tìm hiểu thêm.

Gần đây, có một bài báo tại một chi nhánh của NBC ở Montana với tiêu đề:  ‘Giá xăng có thể giảm xuống dưới 3 đô la vào cuối năm 2025’ - được cho là có mối liên hệ giữa việc giá xăng giảm gần đây với các chính sách ủng hộ năng lượng của Tổng thống Trump.

Dòng đầu tiên của bài báo viết: "Gần đây, sản lượng dầu khí đã tăng vọt nhờ các chính sách ủng hộ năng lượng của Tổng thống Donald Trump."

Trước khi đi sâu vào sản lượng dầu gần đây, có thể hữu ích khi nhìn lại các sự kiện sản xuất dầu lớn trong 24 năm qua.

Có rất nhiều sự kiện đã tác động đến sản lượng dầu kể từ năm 2000. Trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống George W. Bush, sản lượng dầu tiếp tục đà suy giảm đã diễn ra từ đầu những năm 1970. Tuy nhiên, các nhà sản xuất dầu khí đã hoàn thiện sự kết hợp giữa khoan ngang và công nghệ khoan thủy lực đá phiến, mở ra "cơn sốt đá phiến", hay "cơn sốt fracking” sau đó không lâu. Giá dầu liên tục tăng trong nhiệm kỳ của Bush - đạt 100 đô la một thùng vào tháng 2 năm 2008 - và điều đó đã tạo ra động lực kinh tế đáng kể cho sự bùng nổ của công nghệ fracking.

Hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama đã chứng kiến ​​sự mở rộng sản xuất dầu khí tự nhiên của Hoa Kỳ lớn nhất trong lịch sử. Mặc dù Obama phần lớn bị coi là có thái độ thù địch với dầu khí, nhưng công nghệ và các lực trên thị trường mới là những yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy sản lượng dầu tăng cao trong nhiệm kỳ tổng thống của ông.

Một ngoại lệ trong nhiệm kỳ của ông diễn ra vào cuối năm 2014, khi Ả Rập Xê Út dẫn đầu OPEC trong việc tăng sản lượng bất chấp giá giảm, nhằm mục đích khiến các nhà sản xuất đá phiến của Mỹ phá sản và bảo vệ thị phần. Điều này đã dẫn đến sự sụp đổ của giá dầu vào năm 2015 và 2016, từ hơn 100 đô la xuống dưới 30 đô la một thùng. Các nhà sản xuất dầu đá phiến của Hoa Kỳ cuối cùng đã cắt giảm chi phí và cải thiện hiệu quả, nhưng sản lượng dầu của Hoa Kỳ đã bị ảnh hưởng tiêu cực trong một thời gian.

Tuy nhiên, đến tháng 11 năm 2016, ngành công nghiệp dầu đá phiến của Hoa Kỳ đã rõ ràng là sẽ sống sót được, vì vậy OPEC đã thay đổi hướng đi và đạt được một thỏa thuận mang tính bước ngoặt với Nga và các nhà sản xuất ngoài OPEC khác để cắt giảm sản lượng 1,2 triệu thùng mỗi ngày. Điều này đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến giá và sự ra đời của liên minh OPEC+. Sau đó, nó cũng dẫn đến sự phục hồi giá và sự phục hồi tăng trưởng sản lượng dầu của Hoa Kỳ.

Tổng thống Trump nhậm chức vào tháng 1 năm 2017, và sản lượng dầu đã trở lại mức tăng trưởng như trong bảy năm đầu tiên của Obama. Các nhà sản xuất đã phá kỷ lục sản lượng dầu hàng tháng trước đó được thiết lập vào năm 1970 vào tháng 10 trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump. Trump đã thông qua các chính sách ủng hộ dầu mỏ, nhưng việc cắt giảm sản lượng của OPEC+, vốn bắt đầu làm tăng giá dầu, mới là yếu tố lớn nhất đưa tăng trưởng trở lại mức trước cuộc chiến giá dầu OPEC.

Điều thường bị bỏ qua trong cuộc thảo luận này là do giá dầu tăng, giá xăng trung bình ở Mỹ thực sự đã tăng trong ba năm đầu nhiệm kỳ của Trump - cho đến khi đại dịch COVID-19 ập đến.

Đại dịch đã làm sụp đổ cả giá dầu - vốn đã giảm xuống mức âm trong thời gian ngắn khi các lệnh giãn cách xã hội được thực hiện - và sản lượng dầu, vốn đã giảm đáng kinh ngạc 3 triệu thùng mỗi ngày trong tháng 4 và tháng 5 năm 2020. Khi mọi người nhớ lại giá xăng đã giảm xuống dưới 2 đô la một gallon dưới thời Tổng thống Trump, thì đó là lần duy nhất điều đó xảy ra.

Khi Tổng thống Biden nhậm chức vào tháng 1 năm 2021, sản lượng dầu đã phục hồi trở lại mức 11,2 triệu thùng/ngày, vẫn thấp hơn 1,8 triệu thùng/ngày so với mức đỉnh trước đại dịch. Nhưng tăng trưởng sản lượng dầu đã tiếp tục trong năm thứ hai của Biden. Trong hai năm cuối nhiệm kỳ, Hoa Kỳ lại một lần nữa lập kỷ lục sản lượng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Tăng trưởng sản lượng dầu mỏ được hỗ trợ đáng kể bởi sự tăng giá mạnh sau cuộc xâm lược Ukraine của Nga, một lần nữa chứng minh sức mạnh của các yếu tố vĩ mô trong việc thúc đẩy sản xuất (mặc dù Biden cũng đã đưa ra những quyết định tác động đến giá dầu).

Trước khi chúng ta đi sâu vào nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump cho đến nay, hãy cùng xem xét lại. Đã có những yếu tố chính tác động đến thị trường dầu mỏ trong 24 năm qua, nhưng rất ít trong số đó liên quan đến hành động của một vị tổng thống. Đúng là Tổng thống Obama và Biden đã thông qua các chính sách năng lượng sạch và nhìn chung có thái độ thù địch với sản xuất dầu mỏ và khí đốt. Tuy nhiên, Obama đã chủ trì sự mở rộng sản xuất dầu khí lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, trong khi Biden giám sát kỷ lục sản lượng khí đốt tự nhiên trong suốt bốn năm ông tại nhiệm, và sản lượng dầu đạt kỷ lục trong hai năm cuối nhiệm kỳ của ông.

Lưu ý rằng điều này không phải để khen ngợi mà là để nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố vĩ mô trong việc thiết lập giá dầu và ảnh hưởng đến sản lượng dầu. Vâng, mỗi tổng thống, kể cả Tổng thống Trump, đều đã thông qua các chính sách có khả năng tác động nhất định đến sản lượng dầu khí. Tuy nhiên, những chính sách này thường có tác động tương đối nhỏ so với các yếu tố vĩ mô như sự bùng nổ khai thác dầu khí bằng phương pháp khoan thủy lực đá phiến (fracking) hay cuộc chiến giá dầu OPEC. Một ngoại lệ có thể được lập luận là những tác động dài hạn của việc khai thác dầu khí bằng phương pháp fracking, vốn chủ yếu được phát triển dưới thời George W. Bush.

"Sự gia tăng đột biến" trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump

Trở lại với tuyên bố của đài NBC, hãy cùng xem xét kỹ hơn bảy tháng đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump và so sánh với nhiệm kỳ của Tổng thống Biden. Nếu có sự gia tăng đột biến, chúng ta sẽ thấy điều đó trong biểu đồ sau, bắt đầu từ tháng 2 năm 2021 - tháng đầu tiên Biden tại nhiệm - và kéo dài đến giữa tháng 8 năm 2025.

Điều đầu tiên cần lưu ý là có một số tác động liên quan đến thời tiết. Bước nhảy vọt ngay từ đầu nhiệm kỳ của Biden là sự phục hồi sau tác động của Bão mùa đông Uri. Do đó, đợt tăng sản lượng ban đầu thực chất chỉ là sự phục hồi trở lại mức sản lượng trước cơn bão. Tương tự, vào tháng 1 năm 2024, một cơn bão mùa đông nghiêm trọng đã làm giảm mạnh sản lượng dầu ở Texas. Và vào tháng 1 năm 2025, thời tiết lạnh giá một lần nữa tác động tiêu cực đến sản lượng ở Bắc Dakota và Texas. Sau mỗi sự kiện này, sản lượng đã phục hồi trở lại.

Tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump là tháng 2 năm 2025. Sản lượng đã phục hồi trong tháng đó sau đợt giảm trước đó, giống như sau các sự kiện thời tiết xấu trước đó. Nhưng ngay cả khi bạn muốn ghi nhận sự tăng trưởng vào tháng 2 của Tổng thống Trump - khi các chính sách của ông chưa có thời gian để có hiệu lực - thì vẫn không có sự tăng đột biến nào khi xem xét trong suốt 4 năm rưỡi qua. Trên thực tế, bạn thấy những "đợt tăng đột biến" lớn hơn đáng kể trong một số giai đoạn nhiệm kỳ của Biden.

Sản lượng dầu năm 2023 dưới thời Biden đã lập kỷ lục, cao hơn 7,9% so với sản lượng năm 2022 và cao hơn 5,0% so với kỷ lục trước đó vào năm 2019 dưới thời Trump. Kỷ lục mới năm 2024 cao hơn 2,1% so với năm 2023. Sản lượng đã tăng nhẹ lên mức kỷ lục hàng tháng mới vào tháng 3 năm 2025, và sản lượng tính đến thời điểm hiện tại của năm 2025 đang tăng khoảng 2,0% so với tốc độ kỷ lục của năm ngoái (mặc dù đã giảm trong hai tháng qua). Vì vậy, thực sự chúng ta đang trên đà thiết lập một kỷ lục sản lượng dầu mới trong năm nay, nhưng tốc độ sản xuất đang chậm lại. Chắc chắn không có sự đột biến nào như đã tuyên bố.

Hơn nữa, bài báo của NBC đã dẫn lời cựu cố vấn kinh tế Nhà Trắng Steve Moore phát biểu: "Trump đang theo đuổi chiến dịch, như ông đã nói, 'Hãy Khoan đi nào’, và chúng ta đang thấy một số thành quả của điều đó."

Trên thực tế, số lượng giàn khoan dầu đã giảm đều đặn trong năm nay, điều này hoàn toàn trái ngược với những gì Moore ngụ ý. Ông ấy đúng khi nói rằng Mỹ có thể sẽ thiết lập một kỷ lục sản lượng khác trong năm nay, nhưng có thể thấy rõ từ đồ họa rằng đây là sự tiếp nối của một xu hướng dài hạn dường như đang chậm lại.

Lưu ý rằng không đề cập đến khí đốt tự nhiên, nhưng xu hướng vẫn khá giống nhau. Sản lượng đã tăng trưởng đều đặn kể từ khoảng năm 2005, có thể sẽ lập thêm một kỷ lục sản lượng nữa trong năm nay, nhưng chưa có sự đột biến nào.

Tại sao giá xăng giảm?

Giá xăng đã giảm đáng kể trong năm nay, theo sau sự sụt giảm chung của dầu thô. Điều này đã khơi dậy một chủ đề chính trị quen thuộc: một số người ủng hộ Trump khẳng định sự sụt giảm này là do hoạt động khoan dầu tăng vọt được thúc đẩy bởi các chính sách của tổng thống. Như chúng ta đã thấy, không hề có sự đột biến nào. Thực tế phức tạp hơn. Thị trường năng lượng mang tính toàn cầu, và giá cả biến động theo cung, cầu và hàng tồn kho - những yếu tố hiếm khi phụ thuộc vào ông chủ Nhà Trắng.

Động lực lớn nhất hiện nay là nguồn cung toàn cầu đang tăng mạnh. OPEC+ đã thông báo sẽ hoàn toàn chấm dứt việc cắt giảm sản lượng tự nguyện 2,2 triệu thùng/ngày vào tháng 9 năm 2025 - sớm hơn một năm so với kế hoạch. Đồng thời, các nhà sản xuất ngoài OPEC như Mỹ, Brazil và Guyana tiếp tục tăng sản lượng. Nhìn chung, nguồn cung toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng 2,5 triệu thùng mỗi ngày trong năm nay, vượt xa nhu cầu và gây áp lực giảm giá rõ ràng.

Về phía cầu, tăng trưởng chậm hơn dự kiến. Tiêu thụ ở Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil không mấy ấn tượng, trong khi ở các nước OECD, nhu cầu về cơ bản vẫn đi ngang. Nhật Bản đang chạm mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ, và tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ đã chậm lại chỉ còn 1,4%, điều này đồng nghĩa với việc tiêu thụ nhiên liệu trong nước yếu hơn.

Cuối cùng, lượng dầu tồn kho đang tăng lên. Lượng dầu tồn kho đã tăng trong năm tháng liên tiếp, đạt mức cao nhất trong 46 tháng là 7,8 tỷ thùng trên toàn thế giới. Lượng dầu tồn kho tăng là một dấu hiệu điển hình của tình trạng dư cung, và lịch sử cho thấy những đợt tăng giá liên tục như thế này thường đi trước những đợt giảm giá mạnh hơn.

Tóm lại, giá xăng giảm hiện nay không phải là kết quả của bất kỳ hành động nào của một chính trị gia đơn lẻ. Chúng là kết quả của sự gia tăng nguồn cung toàn cầu, kết hợp với sự tăng trưởng nhu cầu yếu và lượng dầu tồn kho tăng. Sự xoay chuyển chính trị có thể không thể cưỡng lại, nhưng các yếu tố thị trường đang góp phần tác động lớn hơn nhiều so với bất kỳ chính quyền nào.

Điều đáng chú ý là trong quá khứ, giá dầu giảm là một thắng lợi rõ ràng cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Trở lại năm 2005, quốc gia này nhập khẩu khoảng 12,5 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, vì vậy dầu rẻ hơn đồng nghĩa với việc hóa đơn nhập khẩu giảm và người tiêu dùng có nhiều tiền hơn.

Nhưng kể từ đó, Hoa Kỳ đã chuyển từ vị thế là nước nhập khẩu lớn nhất thế giới sang nước xuất khẩu ròng dầu thô và các sản phẩm tinh chế. Điều đó làm thay đổi phép tính. Giá dầu thấp hơn vẫn có lợi cho người tiêu dùng tại các trạm xăng, nhưng chúng cũng gây áp lực lên một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất của Hoa Kỳ, làm giảm doanh thu xuất khẩu và gia tăng thâm hụt thương mại. Đối với một quốc gia hiện đang phụ thuộc vào xuất khẩu năng lượng như một trụ cột kinh tế, dầu giá rẻ là một con dao hai lưỡi.

Kết luận

Thật hấp dẫn khi dành quá nhiều công lao hoặc đổ lỗi cho một Tổng thống về những gì đang diễn ra tại các trạm xăng. Nhưng thực tế là giá xăng được quyết định bởi những thế lực lớn hơn nhiều so với bất kỳ chính quyền nào. Những thay đổi công nghệ như khai thác dầu đá phiến, các quyết định địa chính trị của OPEC+, biến động thời tiết và xu hướng nhu cầu toàn cầu định hình thị trường dầu mỏ quyết liệt hơn nhiều so với các sắc lệnh hành pháp hay khẩu hiệu vận động tranh cử.

Điều đó không có nghĩa là chính sách không còn quan trọng nữa—nó có thể làm thay đổi cục diện ở một mức độ nào đó. Nhưng sự sụt giảm giá gần đây là một lời nhắc nhở rằng năng lượng là một ngành kinh doanh toàn cầu, và Hoa Kỳ vừa là bên hưởng lợi vừa là bên chịu thiệt hại từ sự biến động của ngành này. Người tiêu dùng hoan nghênh giá giảm tại các trạm xăng, nhưng là một quốc gia xuất khẩu năng lượng, Mỹ cũng phải gánh chịu những bất lợi do giá sụt giảm.

Điểm mấu chốt: các đảng phái có thể xoay chuyển giá xăng, nhưng câu chuyện thực sự nằm ở sự tương tác toàn cầu giữa cung, cầu và đầu tư. Và câu chuyện đó luôn có tác động lớn hơn—và phức tạp hơn—so với Washington.

Nguồn tin: xangdau.net

ĐỌC THÊM