Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Thách thức về condensate đối với sự tăng trưởng của ngành khai thác dầu cát ở Canada

Chính phủ Canada và tỉnh Alberta đã đạt được một cột mốc quan trọng vào cuối tháng 11, với việc ký kết Biên bản ghi nhớ (MoU) nhằm tăng cường hợp tác năng lượng và phát triển kinh tế bền vững. Một trụ cột chính của thông báo là đường ống dẫn bitum dự phòng từ Alberta đến British Columbia, nhắm mục tiêu công suất xuất khẩu bằng đường biển ít nhất 1 triệu thùng mỗi ngày. Thông tin này được đưa ra ngay sau khi một số nhà điều hành đường ống dẫn dầu của Canada công bố kế hoạch mở rộng đường ống dẫn dầu thô hiện có, với tiềm năng bổ sung thêm khoảng 2 triệu thùng dầu mỗi ngày. Việc phát triển thêm nguồn xuất khẩu là rất quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng nguồn cung tại Lưu vực trầm tích Tây Canada (WCSB). WCSB hiện đang thiếu hụt nguồn cung khí condensate về mặt cấu trúc được sử dụng làm chất pha loãng để pha trộn với dầu nặng, nhập khẩu khoảng 260.000 thùng/ngày từ Mỹ, và bất kỳ sự gia tăng đáng kể nào trong nguồn cung dầu nặng cũng sẽ phụ thuộc vào sản lượng khí condensate trong nước để lấp khoảng trống này. Mặc dù điều này sẽ thúc đẩy hoạt động cho các nhà điều hành tại các mỏ Montney và Duvernay, nhưng lại có những nhược điểm liên quan đến khí tự nhiên được sản xuất cùng với lượng khí condensate, gây áp lực giảm giá đối với Công ty Năng lượng Alberta (AECO).

Việc vận chuyển dầu nặng của Canada thường yêu cầu tỷ lệ pha trộn dầu và condensate là 70:30. Canada sản xuất khoảng 570.000 thùng condensate mỗi ngày, chủ yếu từ các mỏ phi truyền thống ở Montney và Duvernay. Phần còn lại của condensate được sử dụng trong hỗn hợp pha loãng được nhập khẩu từ Mỹ thông qua đường ống Cochin của Pembina (95.000 thùng/ngày) và đường ống Southern Lights của Enbridge (195.000 thùng/ngày). Đầu năm nay, Enbridge đã đưa vào vận hành thêm 15.000 thùng/ngày công suất đường ống Southern Lights để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất dầu nặng trong ngắn hạn. Với cả hai hệ thống đường ống đang hoạt động ở mức công suất tối đa hoặc gần tối đa, nguồn cung cấp dung môi pha loãng của Alberta phụ thuộc rất nhiều vào sự tăng trưởng sản lượng condensate trong nước để bù đắp bất kỳ sự thiếu hụt nào. Nếu không có sự tăng trưởng nguồn cung trong nước, việc nhập khẩu bằng đường sắt từ Mỹ có thể là cần thiết để đáp ứng nhu cầu dung môi pha loãng ngày càng tăng, điều này sẽ làm tăng chi phí dung môi pha loãng cho các nhà sản xuất dầu nặng của Alberta.

Với dự báo lượng dầu thô xuất khẩu ở miền Tây Canada sẽ thắt chặt vào khoảng năm 2027, các nhà điều hành đường ống đã công bố kế hoạch mở rộng các dự án hiện có để tăng thêm công suất khoảng 840.000 thùng/ngày. Trans Mountain dự kiến ​​sẽ bổ sung khoảng 360.000 thùng/ngày vào đường ống bờ biển phía tây của mình và Enbridge dự kiến ​​sẽ tăng công suất xuất khẩu sang Mỹ thông qua một loạt các giai đoạn với tổng cộng 430.000 thùng/ngày. Tổng cộng, điều này sẽ bổ sung thêm khoảng 790.000 thùng dầu/ngày vận chuyển ra khỏi Canada từ năm 2027 đến đầu những năm 2030, và con số này có thể còn cao hơn nữa khi Enbridge báo hiệu khả năng tối ưu hóa thêm các giai đoạn (3 và 4) của hệ thống đường ống chính của họ trong tương lai.

Gibson Energy đã công bố tại buổi thuyết trình Ngày Nhà đầu tư kế hoạch triển khai lên đến 1 tỷ đô la Canada (710 triệu đô la Mỹ) vốn đầu tư tăng trưởng trong 5 năm tới. Các sáng kiến ​​bao gồm kế hoạch mở rộng Đơn vị Thu hồi Chất pha loãng (DRU) đã được cấp bằng sáng chế của họ thêm 50.000 thùng/ngày bắt đầu từ năm 2028 – với công suất bổ sung 50.000 thùng/ngày nếu cần. Ý nghĩa của việc mở rộng này là nó không chỉ làm tăng lượng dầu thô vận chuyển bằng đường sắt từ miền Tây Canada mà còn đưa chất pha loãng (condensate) trở lại bể chứa chất pha loãng của Alberta. Do giá condensate xấp xỉ bằng giá dầu West Texas Intermediate (WTI), nên nó có giá cao hơn so với giá dầu nặng đã được pha trộn hoàn toàn. Phương thức vận chuyển thay thế này có thể thu hút sự quan tâm từ các nhà vận chuyển đang tìm cách tăng khối lượng hàng hóa đồng thời giảm chi phí liên quan đến condensate.

Với làn sóng gia tăng công suất vận chuyển dầu dự kiến ​​sẽ đổ vào thị trường, triển vọng về một đường ống dẫn dầu mới giữa Alberta và British Columbia có thể đẩy tổng công suất vận chuyển bổ sung lên khoảng 2 triệu thùng/ngày. Tuy nhiên, vẫn còn một số trở ngại cần vượt qua trước khi một đề xuất chính thức được đệ trình lên Văn phòng Dự án Lớn trước ngày 1 tháng 7 năm 2026. Những trở ngại này bao gồm: một nhà đầu tư tư nhân, sự hợp tác giữa chính quyền tỉnh và cộng đồng người bản địa, việc sửa đổi lệnh cấm tàu ​​chở dầu, và sự phát triển đồng bộ của dự án thu giữ carbon giai đoạn 1 của Pathways Alliance. Mặc dù Biên bản ghi nhớ cung cấp khuôn khổ cho một đường ống dẫn dầu mới tiềm năng, nhưng số lượng các yêu cầu và sự không chắc chắn khiến việc bảo lãnh cho một dự án quy mô này vẫn còn khá mang tính đầu cơ bất chấp thỏa thuận mới.

Kịch bản cơ sở của Rystad Energy dự báo sẽ có thêm 840.000 thùng/ngày công suất vận chuyển dầu được xây dựng ở miền Tây Canada trong thập kỷ tới. Điều này sẽ đòi hỏi khoảng 214.200 thùng dầu ngưng tụ mỗi ngày bổ sung để vận chuyển, giả sử tỷ lệ sử dụng công suất là 85%. Dựa trên dự báo tăng trưởng nguồn cung condensate trong nước khoảng 150.000 thùng/ngày trong thập kỷ tới, lưu vực này sẽ thiếu hụt một lượng nhỏ 64.200 thùng/ngày dầu condensate cần thiết. Với công suất tăng thêm có sẵn trên Southern Lights (15.000 thùng/ngày) và việc mở rộng các đơn vị xử lý dầu khí trực tiếp (DRU) (từ 50.000 đến 100.000 thùng/ngày), sự thiếu hụt này có khả năng được đáp ứng bởi các nguồn này, khiến thị trường dầu thùng/ngày được cân bằng chặt chẽ.

Trong kịch bản lạc quan nhất, nếu đường ống AB-BC được xây dựng cùng với việc mở rộng thêm hệ thống Mainline của Enbridge, giai đoạn 3 và 4, sự thiếu hụt dầu condensate dự kiến ​​sẽ tăng cao hơn nữa lên khoảng 383.000 thùng/ngày – cũng giả sử tỷ lệ sử dụng công suất là 85%. Dựa trên nhu cầu về condensate rất lớn và sự thiếu hụt năng lực nhập khẩu hiện có, nguồn cung condensate trong nước khó có thể đáp ứng được mức này nếu không có thêm nguồn khí đốt tự nhiên. Như một giải pháp thay thế tốn kém hơn, các nhà khai thác dầu cát có thể xem xét cung cấp condensate thông qua nhập khẩu bằng đường sắt hoặc thậm chí sử dụng dầu thô tổng hợp (SCO) làm chất pha loãng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào giá dầu trong tương lai, những lựa chọn có chi phí cao hơn này có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận ròng.

Thoạt nhìn, biên bản ghi nhớ mới nhất là một bước cải thiện đáng kể và là sự thay đổi đáng hoan nghênh hướng tới hợp tác trong khai thác tài nguyên và cơ sở hạ tầng. Trong bối cảnh triển vọng sản xuất dầu mỏ dài hạn của Canada đang ngày càng được quan tâm nhờ những dự báo mới nhất về việc mở rộng các tuyến khai thác, condensate tiếp tục là trụ cột chính cho sự tăng trưởng của ngành dầu cát trong tương lai. Trước tình hình nhu cầu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) ngày càng tăng và nhu cầu sử dụng condensate trong nước ngày càng cao, các công ty khai thác dầu khí phi truyền thống sẽ tiếp tục đẩy nhanh tiến độ phát triển và mở rộng quy mô các mỏ giàu chất lỏng có giá trị cao ở Montney và Duvernay. Đồng thời, thị trường khí đốt tự nhiên trong nước sẽ chịu áp lực giảm giá do sự tăng trưởng khí đốt liên quan đến sản xuất condensate trong nước có thể dẫn đến tình trạng cung vượt cầu đối với thị trường khí đốt của Canada. Mặc dù vẫn còn những điều chưa chắc chắn xung quanh bản ghi nhớ gần đây và cách thức thực hiện chính sách năng lượng và khí hậu tổng thể, nhưng sự tiến triển chung hướng tới hợp tác mạnh mẽ hơn là một dấu hiệu tích cực và có thể tạo ra những động lực mới cho ngành dầu khí của Canada trong tương lai.

Nguồn tin: xangdau.net/Rystad Energy

ĐỌC THÊM