Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Thị trường ngày 19/1: Giá dầu và vàng tăng; đồng và nhôm giảm

 Phiên giao dịch vừa qua, giá hầu hết các hàng hóa nguyên liệu giảm, ngoại trừ dầu và vàng.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng cùng chiều với thị trường chứng khoán trước lễ nhậm chức Tổng Thống Mỹ của ông Joe Biden vào ngày 20/1, trong bối cảnh các nhà đầu tư lạc quan kỳ vọng rằng nhiều biện pháp kinh tế của các quốc gia trên thế giới cuối cùng sẽ giúp kinh tế toàn cầu tăng trưởng. Các chỉ số chính trên thị trường chứng khoán Phố Wall sau khi các ngân hàng lớn của Mỹ thông báo lợi nhuận vượt kỳ vọng.
 
Kết thúc phiên này, dầu, Brent kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 1,15 USD, tương đương 2,1%, lên 55,9 USD/thùng; trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 62 US cent (1,2%) lên 52,98 USD/thùng. Hợp đồng dầu WTI kỳ hạn tháng 2/2021 sẽ đáo hạn trong ngày 20/1.
Người phụ trách công ty Rystad Energy, ông Bjornar Tonhaugen, cho biết: “Khi chúng ta đang tiến gần đến sự khởi đầu của kỷ nguyên do ông Biden nắm quyền ở Mỹ, các nhà đầu tư dầu mỏ có thể hy vọng về những tác động tích cực từ gói kích thích kinh tế sắp tới (1,9 nghìn tỷ USD) đến thị trường dầu.
Bà Janet Yellen- ứng cử viên cho vị trí Bộ trường Tài chính Mỹ trong chính phủ của Tổng thống đắc cử Joe Biden, đã kêu gọi các nhà lập pháp Mỹ “hành động tích cực” cho gói kích thích kinh tế tiếp theo, nói rằng những lợi ích mà nó mang lại lớn hơn nhiều so với việc “gánh nặng nợ nần sẽ tăng lên”.
Tổ chức Halliburton cho rằng nhu cầu năng lượng trên toàn cầu sẽ phục hồi trong quý II/2021, khi các nhà cung cấp dịch vụ khai thác dầu mỏ có lợi nhuận ước tính cao hơn kỳ vọng trước đó
Các nhà đầu tư cũng lạc quan về nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ ở thị trường Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới, sau khi số liệu cho thấy sản lượng lọc dầu ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới năm 2020 tăng lên mức kỷ lục.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã hạ triển vọng nhu cầu dầu mỏ năm 2021 nhưng cho rằng nhu cầu năng lượng sẽ phục hồi trong nửa cuối năm nay, lên mức trung bình 96,6 triệu thùng dầu mỗi ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do USD giảm và kỳ vọng vào những gói kích thích mới của Chính phủ Mỹ. Vàng được xem là một kênh phòng ngừa lạm phát và giảm giá tiền tệ, vốn có thể là kết quả từ các gói kích thích kinh tế quy mô lớn.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,2%, lên 1.840,38 USD/ounce, phục hồi từ mức thấp nhất kể từ ngày 2/12/2020 ghi nhận trong phiên trước đó là 1.809,90 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,6%, lên 1.840,20 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD đã giảm từ mức đỉnh 4 tuần ghi nhận được trong phiên trước, khiến giá vàng trở nên bớt "đắt đỏ" hơn đối với người nắm giữ những đồng tiền khác.
Trong phiên điều trần trước các nhà lập pháp của Thượng viện Mỹ vào ngày 19/1, bà Janet Yellen cho rằng nên để thị trường xác định giá trị của đồng USD. Bà Yellen cũng tái khẳng định cam kết của mình đối với các biện pháp cứu trợ và nhấn mạnh sự nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế.
Michael Langford, Giám đốc công ty tư vấn AirGuide, nhận định rằng các ngân hàng trung ương toàn cầu đều nhận thức được rằng mặc dù thị trường chứng khoán đang diễn biến tốt, nhưng nền kinh tế cơ bản vẫn rất yếu và cần có các biện pháp kích thích.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,5% xuống 25,20 USD/ounce, bạch kim tăng 0,4% lên 1.082,92 USD/ounce, trong khi palađi giảm 0,6%, xuống 2.357,76 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 2 tháng do lượng tồn trữ tăng và lo ngại về tình trạng dư thừa.
Kết thúc phiên giao dịch, giá nhôm kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,3% xuống 1.966,50 USD/tấn, trước đó có lúc chạm 1.945 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ 16/11.
Wenyu Yao, chiến lược gia hàng hóa cấp cao của ING Bank cho biết: “Trong ngắn hạn, chúng ta có thể thấy lượng tồn kho tăng ở cả bên trong và bên ngoài Trung Quốc – yếu tố đang ngăn giá nhôm tăng”.
Lượng nhôm lưu kho trên sàn LME đã tăng 10% trong 2 phiên vừa qua, lên 1,41 triệu tấn, trong khi lượng lưu kho ở sàn Thượng Hải tăng 12% trong tháng qua.
Sản lượng nhôm Trung Quốc năm 2020 đã tăng 4,9% so với năm trước đó, lên kỷ lục 37,08 triệu tấn, do lợi nhuận từ luyện kim nhôm tăng vì giá nhôm cao.
Các nhà kinh doanh nhôm cũng nhận định giá nhôm sẽ chững lại sau khi tăng 44% kể từ tháng 4 năm ngoái, lên mức cao nhất trong hơn 2 năm vào tháng 12/2020.
Giá đồng cũng giảm 0,1% trong phiên vừa qua, xuống 7.965 USD/tấn khi các nhà đầu tư nhận định phát biểu của bà Janet Yellen về việc Mỹ cần tung thêm những chương trình kích thích kinh tế nữa sẽ đẩy USD giảm giá thêm nữa.
Tình hình dịch bệnh Covid-19 ở Trung Quốc cũng gây lo ngại về triển vọng nhu cầu kim loại công nghiệp trong thời gian tới.
Giá quặng sắt quay đầu giảm trong phiên vừa qua, sau khi đạt mức cao nhất 4 tuần ở phiên trước đó, do biên lợi nhuận sản xuất thép của hãng sản xuất thép lớn nhất Trung Quốc giảm sút do giá nguyên liệu tăng cao gần đây.
Theo đó, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm 1,4% xuống 1.046 CNY (161,26 USD)/tấn, trong khi quặng sắt kỳ hạn 1 tháng trên sàn Singapore giảm 2,2% xuống 166.50 USD/tấn.
Richard Lu, nhà phân tích cấp cao của CRU, cho biết: "Biên lợi nhuận sản xuất thép đã giảm nhanh chóng trong những ngày gần đây. Điều này sẽ thúc đẩy một số nhà sản xuất thép có chi phí cao tiến hành bảo trì, khiến tiêu thụ quặng sắt giảm".
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ giảm trong phiên vừa qua vì khắp khu vực Nam Mỹ đã có mưa, làm giảm lo ngại về tình trạng hạn hán gây ảnh hưởng đến cây trồng ở khu vực này. Ngô cũng giảm giá theo đậu tương, nhưng mức giảm được hạn chế bởi nhu cầu xuất khẩu mạnh và khả năng Ukraina hạn chế xuất khẩu ngô. Tương tự, lúa mì cũng giảm giá nhưng không nhiều do Nga hạn chế xuất khẩu.
Cụ thể, giá đậu tương hợp đồng tham chiếu trên sàn Chicago giảm 31 US cent xuống 13,85-3/4 USD/bushel, giảm 2,2% trong phiên này, mức giảm nhiều nhất kể từ 12/10/2020; giá ngô giảm 5-1/2 US cent xuống 5,26 USD/bushel, trong khi lúa mì giảm 3-1/4 US cent xuống 6,72-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 0,35 US cent (2,1%) xuống 16,10 US cent/lb trong phiên vừa qua, từ mức cao kỷ lục 3,5 năm của tuần trước (là 16,75 US cent).
Nhu cầu từ Trung Quốc đang chậm lại sau đợt mua mạnh vào năm ngoái, trong khi triển vọng nguồn cung đường của Ấn Độ tăng lên, ngăn giá đường tăng tiếp.
Trung Quốc đã nhập khẩu 5,27 triệu tấn đường trong năm 2020, tăng 55,5% so với năm trước đó.
Tuy nhiên, trái với đường thô, giá đường trắng giảm trong phiên vừa qua, với hợp đồng giao tháng 3 giảm 16,3 USD, từ mức 451,2 USD/tấn, sau khi đạt mức cao kỷ lục 3,5 năm là 468,7 USD trong phiên 18/1,
Giá cà phê cũng giảm trong phiên vừa qua, theo đó arabica kỳ hạn tháng 3/2021 giảm 1 US cent, tương đương 0,8%, xuống 1,2715 USD/lb, sau khi tăng liên tiếp 4 phiên trước đó; robusta giao cùng kỳ hạn tăng 5 USD, tương dương 0,4% lên 1.348 USD/tấn.
Giá dầu cọ Malaysia đã giảm 2% trong phiên giao dịch vừa qua, xuống mức thấp nhất trong vòng gần 2 tháng, do lo ngại triển vọng xuất khẩu sẽ giảm sút.
Kết thúc phiên giao dịch, hợp đồng kỳ hạn tháng 4 trên sàn Bursa (Malaysia) giảm 77 ringgit (2,3%) xuống 3.273 ringgit (808,55 USD)/tấn. Như vậy, dầu cọ đã giảm liên tiếp 7 phiên, và hiện đang ở mức thấp nhất kể từ 26/11. Xuất khẩu dầu cọ của Malaysia trong 20 ngày đầu tháng 1/2021 đã giảm 42% so với cùng kỳ tháng trước.
Thị trường dầu cọ lúc này đặt trọng tâm chú ý vào triển vọng nhu cầu ở các thị trường Ấn Độ và Trung Quốc, sau khi Châu Âu ngày càng thắt chặt các quy định về tiêu thụ dầu cọ.
Nhập khẩu dầu cọ của Liên minh châu Âu trong niên vụ 2020/21, bắt đầu vào tháng 7 năm ngoái, đã đạt 3,24 triệu tấn tính tới 17/1, tăng so với 3,10 triệu tấn vào cùng thời điểm năm ngoái, dữ liệu do Ủy ban châu Âu công bố.
Các nhà sản xuất dầu cọ hàng đầu thế giới, Indonesia và Malaysia, đang tìm cách hợp tác lần đầu tiên để thực hiện một chiến dịch vận động châu Âu thay đổi chính sách đối với sử dụng dầu cọ.
Đối với mặt hàng cao su, gía tại Nhật Bản giảm 3% trong phiên vừa qua do lo ngại về tình trạng virus Covid-19 lây lan nhanh chóng, sau khi Nhật Bản phát hiện có virus biến thể ở 3 bệnh nhân, giữa bối cảnh dịch bệnh ở Trung Quốc cũng đang diễn biến phức tạp.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 6 trên sàn Osaka giảm 7,3 JPY (3%) xuống 236,9 JPY (2,28 USD)/kg. Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 5 cũng giảm 0,3% xuống 14.655 CNY (2.260,71 USD)/tấn.
Dịch bệnh Covid-19 ở Trung Quốc đang bùng phát mạnh nhất kể từ tháng 3 năm ngoái, khi có một tỉnh ghi nhận số bệnh tăng kỷ lục mỗi ngày, và hàng triệu người lại bị phong tỏa.

Giá hàng hóa thế giới sáng 20/1/2020

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,12

+0,14

+0,26%

Dầu Brent

USD/thùng

56,04

+0,14

+0,25%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.520,00

+500,00

+1,43%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,56

+0,01

+0,51%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

153,94

+0,13

+0,08%

Dầu đốt

US cent/gallon

159,97

+0,10

+0,06%

Dầu khí

USD/tấn

458,00

-1,25

-0,27%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

49.880,00

+570,00

+1,16%

Vàng New York

USD/ounce

1.844,70

+4,50

+0,24%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.173,00

+19,00

+0,31%

Bạc New York

USD/ounce

25,42

+0,10

+0,38%

Bạc TOCOM

JPY/g

85,60

+0,70

+0,82%

Bạch kim

USD/ounce

1.096,36

+7,49

+0,69%

Palađi

USD/ounce

2.370,16

+7,64

+0,32%

Đồng New York

US cent/lb

362,90

-0,45

-0,12%

Đồng LME

USD/tấn

7.954,00

-17,50

-0,22%

Nhôm LME

USD/tấn

1.964,00

-8,00

-0,41%

Kẽm LME

USD/tấn

2.686,00

+3,50

+0,13%

Thiếc LME

USD/tấn

21.165,00

-70,00

-0,33%

Ngô

US cent/bushel

520,50

-5,50

-1,05%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

662,75

-9,50

-1,41%

Lúa mạch

US cent/bushel

362,25

-0,25

-0,07%

Gạo thô

USD/cwt

13,09

-0,10

-0,80%

Đậu tương

US cent/bushel

1.360,50

-25,25

-1,82%

Khô đậu tương

USD/tấn

444,20

-6,30

-1,40%

Dầu đậu tương

US cent/lb

41,10

-0,60

-1,44%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

653,40

-10,80

-1,63%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.590,00

+63,00

+2,49%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

127,15

-1,00

-0,78%

Đường thô

US cent/lb

16,10

-0,35

-2,13%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

118,70

-3,15

-2,59%

Bông

US cent/lb

81,15

+0,45

+0,56%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

668,00

+5,10

+0,77%

Cao su TOCOM

JPY/kg

160,90

+0,40

+0,25%

Ethanol CME

USD/gallon

1,66

-0,04

-2,12%

 

 
Nguồn tin: Vinanet
 

 

ĐỌC THÊM