Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

TT hàng hóa quốc tế phiên 19/10: Giá vàng tăng, dầu giảm

 Phiên giao dịch vừa qua, giá dầu giảm do lo ngại nhu cầu yếu kéo dài vì số ca nhiễm Covid-19 gia tăng. Trái lại, thị trường vàng khởi sắc.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm giữa bối cảnh số ca nhiễm Covid-19 trên toàn cầu tiếp tục gia tăng.

Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 11/2020 giảm 5 US cent xuống 40,83 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 12/2020 giảm 31 xu Mỹ, xuống 42,62 USD/thùng.

Nhà phân tích về năng lượng tại Commerzbank Research, Eugen Weinberg, cho rằng tình hình thị trường dầu mỏ đang gây lo ngại khi nhu cầu vẫn yếu và mà lượng lại tăng.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ngày 13/10 cho biết sự phục hồi kinh tế chậm chạp sau đại dịch COVID-19 sẽ đẩy lùi thời điểm nhu cầu năng lượng thế giới phục hồi hoàn toàn đến năm 2025. Trong báo cáo thường niên Triển vọng Năng lượng Thế giới, IEA đưa ra kịch bản cơ sở, theo đó kinh tế toàn cầu phục hồi vào năm 2021 và nhu cầu năng lượng thế giới phục hồi hoàn toàn vào năm 2023 khi thế giới phát triển được một loại vắc-xin ngừa COVID-19 và phương pháp điều trị COVID-19. Tuy nhiên, trong kịch bản sự phục hồi bị trì trệ, kinh tế toàn cầu sẽ phục hồi vào năm 2023 và nhu cầu năng lượng thế giới sẽ phục hồi hoàn toàn vào năm 2025.

Các nhà phân tích cũng tập trung vào cuộc họp của ủy ban giám sát cấp bộ trưởng OPEC+ trong ngày 19/10. Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho biết ủy ban khuyến nghị tuân thủ hoàn toàn thỏa thuận của tổ chức này để giảm sản lượng dầu mỏ.

Saudi Arabia, thành viên lớn nhất của tổ chức OPEC cho biết không ai nên nghi ngờ cam kết hỗ trợ của tổ chức này, trong khi 3 nguồn tin từ các nước sản xuất cho biết kế hoạch tăng sản lượng từ tháng 1/2020 có thể bị đảo ngược nếu cần thiết.

OPEC+ đang hạn chế sản lượng ở mức 7,7 triệu thùng/ngày, thấp hơn mức cắt giảm tổng cộng 9,7 triệu thùng/ngàycủa giai đoạn trước, và dự kiến hạ tiếpm mức cắt giảm thêm 2 triệu thùng/ngày trong tháng 1/2020.

Gây sức ép lên giá dầu, Libya đã tăng sản lượng đáng kể sau khi lực lượng miền đông bỏ phong tỏa trong tháng 9. Mỏ dầu Abu Attifel công suất 70.000 thùng/ngày được dự kiến bắt đầu khởi động lại vào ngày 24/10 sau khi đóng cửa trong nhiều tháng.

Ngân hàng Mỹ dự kiến giá dầu Brent và WTI sẽ đạt trung bình lần lượt 44 USD và 40 USD/thùng trong năm 2020, 50 USD và 47 USD/thùng trong năm 2021.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do USD yếu đi và hy vọng Mỹ sẽ thông qua gói kích thích kinh tế mới.

Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.906,36 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12 của tăng 0,3% lên 1.911,7 USD/ounce.

Đồng USD đã giảm 0,4% so với các đồng tiền khác, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.

Chiến lược gia Phillip Streible tại Blue Line Futures có trụ sở ở Chicago (Mỹ) nhận định giá vàng đang mạnh lên trong bối cảnh đồng USD có xu hướng giảm và những dự đoán về một số loại gói kích thích kinh tế mới sẽ được công bố trong hai ngày tới.

Ngày 18/10, Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi đã đưa ra thời hạn chót để đạt được thỏa thuận với Nhà Trắng về gói kích thích mới nhằm hỗ trợ nền kinh tế vượt qua đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19. Trả lời phỏng vấn trên ABC, Chủ tịch Hạ viện Mỹ Pelosi cho biết thời hạn 48 giờ được đưa ra liên quan tới việc liệu hai bên có muốn đạt được thỏa thuận trước khi diễn ra cuộc bầu cử hay không, đồng thời bày tỏ sự lạc quan trở lại về khả năng trên khi hai bên tiến hành thảo luận về vấn đề này.

Theo các chuyên gia, giá vàng sẽ tiếp tục nhận được hỗ trợ, do những lo ngại về những chính sách hạn chế mới tại nhiều nước, nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh.

Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,3% lên 24,48 USD/ounce vào cuối phiên, sau khi có thời điểm đạt mức cao nhất 1 tuần. Ngân hàng City dự báo giá bạc sẽ tăng lên 40 USD trong 12 tháng tới do nhu cầu hồi phục trong lĩnh vực công nghiệp. Giá bạch kim giảm 0,1% trong phiên vừa qua, xuống 858,93 USD/ounce, trong khi palađi tăng 0,6% lên 2.345,80 USD/ounce.

Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nickel cao nhất 11 tháng do dự đoán nhu cầu mạnh từ các nhà máy thép không gỉ, trong khi các kim loại công nghiệp được hỗ trợ bởi đồng USD giảm giá và tăng trưởng mạnh từ nước tiêu thụ hàng đầu, Trung Quốc.

Trên sàn giao dịch kim loại London, nickel giao sau 3 tháng lúc đóng cửa tăng 0,2% lên 15.685 USD/tấn trước đó giá đã đạt 15.815 USD, cao nhất kể từ tháng 11/2019.

Nhà phân tích Jim Lennon tại Macquarie cho biết ít ai dự đoán được sự phục hồi đáng kể trong sản xuất thép không gỉ của Trung Quốc và Indonesia, đặc biệt loại nickel 300.

Giá nickel cao cũng do việc trì hoãn kế hoạch mở rộng sản xuất ở Indonesia cho đến năm tới.

Nhu cầu nickel trên toàn cầu dự đoán ở mức 2,52 triệu tấn trong năm 2021 từ mức 2,32 triệu tấn trong năm nay, theo Tổ chức nghiên cứu nickel thế giới (INSG). Họ dự đoán dư thừa 117.00 tấn nickel trong năm nay và dư 68.000 tấn trong năm tới.

Các kim loại cơ bản được hỗ trợ bởi GDP của Trung Quốc tăng 4,9% trong quý 3, thấp hơn mức dự đoán nhưng cao hơn mức 3,2% trong quý 2. Sản xuất công nghiệp, yếu tố quan trọng cho nhu cầu kim loại trong tháng 9 tăng 6,9% so với cùng tháng năm trước từ mức 5,6% trong tháng 8.

Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm xuống mức thấp nhất trong 3 tuần do tồn kho ở các cảng của Trung Quốc ngày càng tăng và triển vọng ảm đạm về nhu cầu thép trong nước khi mùa đông.

Hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch kỳ hạn Đại Liên giảm khoảng 1,9% xuống 769,5 CNY (114,86 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 29/9, trước khi đóng cửa giảm 0,4% xuống 781 CNY/tấn. Trên sàn Singapore, quặng sắt tăng 0,2% lên 115,14 USD/tấn.

Lượng quặng sắt nhập khẩu lưu tại các cảng biển Trung Quốc tăng lên mức cao mới trong 7 tháng tại 124,5 triệu tấn trong tuần trước, theo công ty tư vấn SteelHome.

Trong bối cảnh dự trữ nguyên liệu thô để sản xuất thép ngày càng tăng ở Trung Quốc, nhu cầu sản phẩm thép nội địa sẽ suy yếu trong mùa đông này, khi hoạt động xây dựng chậm lại.

Triển vọng u ám với nhu cầu thép, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong quý 3 không như dự kiến, cho thấy thách thức với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này và là nước tiêu thụ thép hàng đầu thế giới.

Sản thượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 9 tăng 10,9% so với tháng 9/2019, đạt 92,56 triệu tấn.

Thép thanh dùng trong xây dựng trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa giảm 0,1%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,6% . Thép không gỉ tăng 0,8%.

Trên thị trường nông sản, giá lúa mì mềm đỏ mùa đông trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) tăng lên mức cao nhất trong gần 6 do lo ngại về tình trạng khô hạn khắp các khu vực trồng trọt trên toàn cầu. Nhưng đà tăng bị hạn chế do giá tăng 8,6% từ đầu tháng tới nay. Giá ngô và lúa mì tăng do dự đoán xuất khẩu tăng, làm giảm áp lực từ vụ thu hoạch của Mỹ đang diễn ra.

Kết thúc phiên giao dịch, giá lúa mỳ giao tháng 12/2020 trên sàn CBOT tăng 1-3/4 US cent lên 6,27 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 12 tăng 3-1/4 US cent lên 4,05-1/4 USD và đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 4-1/4 US cent lên 10,54 USD.

Thị trường được hỗ trợ bởi Ấn Độ không có thông báo về trợ cấp xuất khẩu cho niên vụ 2020/21. Ấn Độ đã xuất khẩu kỷ lục 5,84 triệu tấn đường trong niên vụ 2019/20, mức trợ cấp xuất khẩu tương đương 6 tới 7 US cent/lb.

Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 đóng cửa tăng 0,29 US cent hay 2% lên 14,72 US cent/lb, giá cao nhất kể từ ngày 26/2; đường trắng kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 7,2 USD hay 1,8% lên 403,2 USD/tấn.

Ấn Độ cần xuất khẩu 6 triệu tấn đường trong năm 2020/21 bắt đầu từ 1/10 do sản lượng có thể tăng bởi diện tích trồng trọt tăng lên.

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 1,2 US cent hay 1,1% xuống 1,0605 USD/lb, mức thấp nhất kể từ ngày 2/10; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2021 tăng 8 USD hay 0,6% lên 1.305 USD/tấn.

Nhu cầu cà phê arabica vẫn hạn chế do việc chậm mở cửa lại các quán cà phê và nhà hàng, trong khi doanh số từ Brazil vẫn lớn do đồng real yếu và giá từ Trung Mỹ đang tăng.

Giá cao su tại Nhật Bản đạt mức cao nhất trong hơn 9 tháng do lo sợ gián đoạn nguồn cung tại nước sản xuất hàng đầu thế giới, Thái Lan bởi bất ổn về chính trị, trong khi hy vọng về nhu cầu phục hồi ổn định tại Trung Quốc thúc đẩy việc mua mới.

Hợp đồng cao su giao tháng 3/2021 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) đóng cửa tăng 3,5 JPY hay 1,7% lên 204,1 JPY (1,94 USD)/kg. Trong đầu phiên giao dịch giá đã lên mức cao nhất kể từ ngày 17/1 tại 208 JPY.

Hợp đồng cao su giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 515 CNY lên 14.075 CNY (2.105 USD)/tấn, tiếp tục tăng phiên thứ 7 liên tiếp. Giá đã chạm mức cao nhất kể từ tháng 1/2018 tại 14.370 CNY/tấn trong đầu phiên.

Giá hàng hóa sáng 20/10

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

40,48

-0,35

-0,86%

Dầu Brent

USD/thùng

42,27

-0,35

-0,82%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.430,00

-240,00

-0,84%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,86

+0,06

+2,15%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

115,25

-0,98

-0,84%

Dầu đốt

US cent/gallon

114,70

-1,11

-0,96%

Dầu khí

USD/tấn

334,00

-7,00

-2,05%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.420,00

-70,00

-0,16%

Vàng New York

USD/ounce

1.901,80

-9,90

-0,52%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.458,00

-21,00

-0,32%

Bạc New York

USD/ounce

24,50

-0,20

-0,82%

Bạc TOCOM

JPY/g

82,60

-0,50

-0,60%

Bạch kim

USD/ounce

857,79

-2,32

-0,27%

Palađi

USD/ounce

2.349,24

+3,78

+0,16%

Đồng New York

US cent/lb

307,65

-0,95

-0,31%

Đồng LME

USD/tấn

6.779,50

+39,50

+0,59%

Nhôm LME

USD/tấn

1.853,50

-17,00

-0,91%

Kẽm LME

USD/tấn

2.491,00

+55,00

+2,26%

Thiếc LME

USD/tấn

18.640,00

+320,00

+1,75%

Ngô

US cent/bushel

404,25

-1,00

-0,25%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

626,75

-0,25

-0,04%

Lúa mạch

US cent/bushel

298,00

+0,50

+0,17%

Gạo thô

USD/cwt

12,43

-0,02

-0,20%

Đậu tương

US cent/bushel

1.054,50

+0,50

+0,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

375,30

+2,10

+0,56%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,39

-0,14

-0,43%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

536,20

+2,30

+0,43%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.425,00

+64,00

+2,71%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

106,05

-1,20

-1,12%

Đường thô

US cent/lb

14,72

+0,29

+2,01%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

116,00

+1,50

+1,31%

Bông

US cent/lb

71,02

-0,14

-0,20%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

550,70

+16,70

+3,13%

Cao su TOCOM

JPY/kg

152,70

+0,10

+0,07%

Ethanol CME

USD/gallon

1,47

+0,03

+2,01%

 Nguồn tin: Vinanet

ĐỌC THÊM