Ngành thăm dò và khai thác dầu đá phiến (E&P) và lĩnh vực vận midstream ở 48 tiểu bang vùng lục địa của Mỹ đã trải qua một năm 2025 đầy biến động và đầy thách thức, có lẽ khác xa so với những gì các công ty điều hành hình dung vào thời điểm này năm ngoái khi chương trình nghị sự "thống trị năng lượng" của chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ hai đang hình thành. Với giá dầu WTI duy trì dưới 60 đô la trong phần lớn thời gian của năm, các công ty E&P dầu khí đã thu hẹp hoạt động, với số lượng giàn khoan hướng đến dầu khí giảm từ 415 giàn vào tháng 01 xuống còn 386 giàn vào Lễ Tạ ơn. Ngược lại, giá khí đốt Henry Hub vẫn được hỗ trợ trong phần lớn thời gian của năm, với hợp đồng tháng đầu tiên hiện ở mức trên 5 đô la mỗi triệu đơn vị nhiệt Anh (MMBtu). Tóm lại, có nhiều sự lạc quan dài hạn về khí đốt trong ngành dầu khí của Mỹ hơn bất kỳ thời điểm nào trong ký ức gần đây, trong khi ngay cả những người lạc quan nhất về dầu mỏ dường như cũng nhận ra những thách thức ngắn hạn.
Năm của khí đốt và LNG
Trong cuộc thảo luận rộng hơn về năng lượng của Mỹ, năm 2025 đã đưa khí đốt tự nhiên trở thành tâm điểm. Việc chấm dứt lệnh tạm dừng cấp phép cho dự án LNG của chính quyền Biden đã giải phóng khoảng 7,6 tỷ feet khối mỗi ngày (Bcfd) nhu cầu khí đốt đầu vào trong tương lai từ các dự án xuất khẩu LNG mới được phê duyệt ở vùng Vịnh Mexico của Mỹ, đẩy tổng nhu cầu khí đốt đầu vào tăng gấp đôi so với mức năm 2024 vào năm 2030. Tuy nhiên, khi các dự án LNG vùng Vịnh Mexico năm 2025 đi vào hoạt động vào cuối thập kỷ này, điều kiện thị trường sẽ không giống với làn sóng các dự án LNG trước đó (2016-2021). Điểm hòa vốn khí đốt khô ở 48 tiểu bang vùng lục địa Mỹ, và do đó, giá Henry Hub, sẽ cao hơn đáng kể. Đồng thời, giá LNG sẽ phải đối mặt với áp lực giảm do nguồn cung toàn cầu tăng lên, thu hẹp chênh lệch giữa giá Henry Hub và các chuẩn quốc tế.
Thị trường ngắn hạn có thể đang phản ánh trước một số động thái này. Chênh lệch giá giữa Title Transfer Facility (TTF) và Henry Hub vào đầu tháng 12 ở mức khoảng 4 USD/MMBtu, mức thấp nhất kể từ đầu năm 2021. Đây sẽ là một trong những mức chênh lệch quan trọng nhất cần theo dõi trong năm 2026, khi dự án Golden Pass LNG dự kiến bắt đầu hoạt động trong thời gian ngắn tới và hướng đến việc tăng công suất tối đa 2,3 tỷ feet khối/ngày.
Chi phí và tiến độ cần được theo dõi sát sao, vì hiện có chín dự án đang được xây dựng trong bối cảnh nguồn lao động và chuỗi cung ứng ngày càng khan hiếm. Vốn đầu tư cần thiết để xây dựng các nhà máy hóa lỏng LNG tiếp tục tăng, với chi phí đầu tư tiêu chuẩn hiện đang tăng lên gần 1.100-1.200 USD/tấn, cao hơn khoảng 20% so với các dự án được phê duyệt trong giai đoạn 2022-2023. Các nhà thầu EPC cũng đang trở nên khắt khe hơn với các điều khoản hợp đồng để chuyển nhiều rủi ro vượt chi phí hơn cho các nhà đầu tư.
Trong bối cảnh chính trị và công nghệ rộng lớn hơn, khí đốt đã nổi lên không phải thông qua khí hóa lỏng (LNG) mà là cuộc đua giành vị thế thống trị về trí tuệ nhân tạo (AI) và sự gia tăng các kế hoạch phát triển trung tâm dữ liệu được cung cấp năng lượng bởi các nhà máy điện chạy bằng khí đốt chuyên dụng (cũng như năng lượng tái tạo). Lượng công suất trung tâm dữ liệu thực sự được xây dựng và nhu cầu khí đốt tương ứng mà nó tạo ra sẽ cần được theo dõi sát sao trong những năm tới. Rystad Energy sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ các dự án trung tâm dữ liệu trên toàn cầu trong năm 2026 để tinh chỉnh triển vọng về nhu cầu khí đốt và điện năng mà chúng sẽ tạo ra.
Triển vọng dầu của Mỹ ổn định miễn là giá dầu WTI giữ trên 55 đô la
Các công ty thăm dò và khai thác dầu khí (E&P) công khai của Mỹ trong năm 2025 đã đi ngược lại kỳ vọng – kể cả các cập nhật hướng dẫn của chính họ vào tháng 5 – về việc sản lượng giảm, trong khi sản lượng dầu của quốc gia liên tục đạt kỷ lục. Theo ước tính, hầu hết các công ty E&P dầu khí của Mỹ có điểm hòa vốn doanh nghiệp gần 60 đô la/thùng, mức mà họ có thể duy trì cổ tức, mua lại cổ phiếu, lãi suất và chi phí quản lý chung (G&A) trong khi khoan các giếng hòa vốn (NPV10). Tuy nhiên, theo đánh giá, giá dầu cần giảm xuống gần 50 đô la mỗi thùng để bắt đầu cắt giảm chi phí đầu tư, từ đó dẫn đến giảm sản lượng hoàn toàn. Việc giảm sản lượng là điều không thể chấp nhận được vì nhiều lý do. Thứ nhất, việc giảm sản lượng làm tăng chi phí vận hành trên mỗi đơn vị và có khả năng dẫn đến việc sử dụng không tối ưu các đường ống vận chuyển. Thứ hai, do tỷ lệ suy giảm giếng dầu đá phiến cao, việc cắt giảm chi phí đầu tư quá mạnh sẽ làm giảm sản lượng PDP (đã được xác minh, đang triển khai và đang sản xuất) tạo ra dòng tiền và củng cố định giá. Và thứ ba, khi giá dầu quay trở lại mức cao hơn, việc tăng cường hoạt động khoan để đạt mức sản lượng trước đây sẽ khó khăn hơn, đòi hỏi chi tiêu tăng mạnh hơn.
Do đó, kỳ vọng các nhà điều hành sẽ sẵn sàng giảm nhẹ tỷ lệ chi trả cổ tức trong ngắn hạn để bảo vệ sản lượng. Điều này đã có tiền lệ trong lịch sử kỷ nguyên kỷ luật vốn. Khi giá dầu giảm từ mức cao nhất năm 2022, các nhà điều hành, sau khi chứng minh khả năng duy trì kỷ luật, đã giảm tỷ lệ chi trả cổ tức để bảo toàn và sử dụng tiền mặt cho việc mua lại dự trữ dài hạn thông qua sáp nhập và mua lại (M&A). Với những đóng góp tiềm năng từ chi phí quản lý và hành chính (G&A) và sự cộng hưởng hoạt động từ M&A vào năm 2026, tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hơn có thể giúp các công ty thăm dò và khai thác (E&P) duy trì mức hòa vốn và giữ sản lượng ở mức 55 đô la/thùng dầu WTI.
Vẫn còn dư địa để cải thiện hiệu quả
Bất kể môi trường vĩ mô ra sao, rõ ràng là các công ty điều hành khai thác dầu đá phiến sẽ tiếp tục áp dụng các công nghệ mới và tạo ra hiệu quả hoạt động cao hơn nữa để giảm chi phí đơn vị. Hiệu quả khoan và hoàn thiện giếng (D&C) tiếp tục được cải thiện trong năm 2025 khi các nhà điều hành nỗ lực giảm chi phí tổng thể trong bối cảnh dầu mỏ vĩ mô suy yếu. Giới hạn tiềm năng cho việc cải thiện hiệu quả đã được tranh luận trong vài năm, nhưng vẫn còn dư địa để cải thiện đáng kể. Giếng khoan ngang siêu dài vẫn là một lĩnh vực tương đối mới đối với các nhà điều hành ở 48 tiểu bang lục địa Mỹ, và các phương pháp thực hành tốt nhất để khoan và hoàn thiện các giếng này sẽ tiếp tục phát triển.
Kỹ thuật khoan bẻ gãy thủy lực đồng thời (simul-fracs) đã chiếm thị phần lớn hơn trong vài năm qua, và kỳ vọng các nhà điều hành sẽ đẩy nhanh nỗ lực hướng tới bẽ gãy thủy lực ba lớp (trimul-frac) và thậm chí bốn lớp (quattro-frac) để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô cao hơn. Một nút thắt quan trọng là việc tìm nguồn và cung cấp lượng nước lớn cần thiết trong thời gian ngắn để thực hiện khoan thủy lực ba lớp và bốn lớp. Tuy nhiên, sự phổ biến ngày càng tăng của các vị trí diện tích liền kề - đặc biệt là trong số các nhà điều hành lớn hơn - sẽ cho phép triển khai các giàn khoan lớn hơn. Điều này sẽ dẫn đến việc khoan ngang dài hơn và thực hiện các kỹ thuật khoan đồng thời (simul, trimul và quattro) trên quy mô lớn bằng cách sử dụng kỹ thuật bơm liên tục. Nhìn chung, những xu hướng này hỗ trợ một bước tiến đột phá khác về hiệu quả trong những năm tới.
Ngoài ra, việc ExxonMobil gần đây sử dụng hỗn hợp than cốc dầu mỏ với chất chống đỡ thông thường để nâng cao hiệu suất giếng đã làm dấy lên sự quan tâm trở lại của ngành này đối với các chất chống đỡ nhẹ thay thế. Với những lo ngại ngày càng tăng về loại giếng cấp 1, các nhà điều hành có khả năng sẽ tăng cường thử nghiệm với các hỗn hợp chất chống đỡ mới để cải thiện khả năng thu hồi.
Các công ty thăm dò và khai thác dầu khí của Mỹ đang ráo riết thu mua quốc tế?
Năm 2026, chúng ta cũng sẽ theo dõi xem các công ty thăm dò và khai thác dầu khí của Mỹ có đảo ngược xu hướng thu hẹp quy mô của những năm 2010 và tăng cường sự hiện diện quốc tế hay không. Công ty tư nhân Continental Resources có trụ sở tại Oklahoma đã mua một lô đất trong mỏ đá phiến Vaca Muerta khổng lồ của Argentina vào tháng trước, chỉ vài tháng sau khi thành lập liên doanh với TPAO để thăm dò và khai thác tài nguyên đá phiến ở Thổ Nhĩ Kỳ. EOG cũng đã nhận được giấy phép thăm dò đá phiến ở UAE, thăm dò dầu khí truyền thống ở Bahrain và có thể cả Alaska (chưa được xác nhận). Mặc dù những động thái như vậy cho thấy ngành công nghiệp đá phiến của Mỹ đang phát triển hơn, nhưng chúng không nhất thiết phản ánh thách thức ngắn hạn thường được thảo luận về nguồn cung cấp đá phiến loại 1 hạn chế. Thay vào đó, chúng đóng vai trò là những lựa chọn tăng trưởng tiềm năng trong trung hạn, có lẽ không còn rõ ràng ở 48 tiểu bang lục địa như trước đây trong điều kiện kinh tế vĩ mô hiện hành.
Nguồn tin: xangdau.net/Rystad Energy






-400x200.jpg)















