Các nhà đầu tư Mỹ đang ngày càng bơm nhiều tiền vào lĩnh vực nhiên liệu hóa thạch của Canada, với các quỹ của Hoa Kỳ hiện nắm giữ gần 60% cổ phần trong ngành dầu khí Canada nhờ chi phí thấp, những thay đổi chính sách thuận lợi và việc hoàn thành mở rộng Đường ống Trans Mountain (TMX). Đây là một sự thay đổi lớn so với một thập kỷ trước khi các quỹ toàn cầu ồ ạt thoái vốn khỏi dầu cát Canada do sự kết hợp của giá dầu toàn cầu thấp, chi phí sản xuất cao và mối lo ngại ngày càng tăng về ô nhiễm môi trường. Khi đó, các công ty như Shell Plc (NYSE:SHEL), ConocoPhillips (NYSE:COP), Marathon Oil (NYSE:MRO) và Statoil của Na Uy đã bán toàn bộ hoặc một phần đáng kể tài sản dầu cát của họ, khi họ chuẩn bị cho "một tương lai carbon thấp". Cát dầu Alberta là một trong những hoạt động khai thác dầu thô quy mô lớn thải ra nhiều carbon nhất thế giới, với mức phát thải khí nhà kính trên mỗi thùng cao hơn nhiều loại dầu thô khác.
Dầu nặng của Canada dường như cũng đang quay trở lại. Nhu cầu dầu nặng của Canada đã tăng vọt gần đây, nhờ nhu cầu ngày càng tăng từ Trung Quốc. Thực tế, nhu cầu đã tăng mạnh đến mức mức chênh lệch giữa dầu thô Canada và dầu thô West Texas Intermediate (WTI) đã thu hẹp xuống chỉ còn 10-12 đô la một thùng, thấp hơn nhiều so với mức khoảng 50 đô la một thùng đã đạt được bảy năm trước, chủ yếu do tình trạng tắc nghẽn đường ống. Việc hoàn thành TMX đã giúp Canada xuất khẩu tới 890.000 thùng dầu thô mỗi ngày sang Trung Quốc và châu Á, thu hút nguồn cung từ vùng Trung Tây Hoa Kỳ và Bờ Vịnh. Theo Jeff Kralowetz, Phó Chủ tịch Phát triển Kinh doanh tại Argus Media, giá dầu thô Canada xuất khẩu sang Trung Quốc được giao dịch ở mức cao hơn tại Vancouver so với giá tại Vịnh Hoa Kỳ trong tháng 10, với chi phí cho các tàu chở dầu lớn hơn thường xuất phát từ Vịnh Hoa Kỳ tăng nhanh hơn so với giá của các tàu nhỏ hơn xuất phát từ Vancouver.
"Điều chúng ta đang thấy hiện nay là rất nhiều nhà máy lọc dầu tại thị trường châu Á đã chịu ảnh hưởng đủ lâu từ WCS và hiện đã thoải mái tiếp nhận các chuyến hàng thường xuyên", Susan Bell, nhà nghiên cứu cấp cao tại Rystad Energy, cho biết.
"Họ đã đầu tư vào việc cải thiện vốn ngay từ đầu để chuyển đổi dầu nặng hơn thành các sản phẩm tinh chế có giá trị hơn", Kevin Birn, nhà phân tích chính tại S&P Global, cho biết.
Xuất khẩu dầu thô của Canada chủ yếu là dầu "nặng" từ các mỏ cát dầu Alberta, với Western Canadian Select (WCS), một hỗn hợp dầu nặng chủ lực, có tỷ trọng API thấp, khoảng 19 đến 22 độ, so với 38-44 độ của dầu thô "nhẹ", bao gồm từ lưu vực Permian ở Hoa Kỳ. Dầu thô nặng thường được giao dịch với giá thấp hơn so với dầu thô nhẹ do chất lượng thấp hơn, khiến việc tinh chế trở nên khó khăn và tốn kém hơn do hàm lượng lưu huỳnh cao hơn.
Một số nhà máy lọc dầu được thiết kế chuyên biệt để xử lý dầu thô nặng, chua nhằm cải thiện biên lợi nhuận. Tuy nhiên, một tỷ lệ lớn các nhà máy lọc dầu cần các đơn vị xử lý đắt tiền hơn để xử lý dầu thô nặng so với dầu thô nhẹ. Mức chênh lệch này phản ánh chi phí tinh chế phát sinh và có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào cung cầu, chi phí vận chuyển cũng như công suất đường ống.
Chi phí giảm
Một trong những điểm hấp dẫn nhất của ngành dầu mỏ Canada là chi phí giảm. Các dự án cát dầu hiện tại của Canada có chi phí vận hành rất thấp, với giá hòa vốn nửa chu kỳ chỉ từ 18-45 đô la Mỹ/thùng (trên cơ sở WTI), trung bình khoảng 27 đô la Mỹ/thùng. Nhìn chung, chi phí này cạnh tranh hoặc thấp hơn chi phí vận hành của nhiều mỏ dầu khí nhẹ của Mỹ. Trong khi đó, việc nâng cấp công nghệ và kiểm soát chi phí của các nhà sản xuất cát dầu lớn hiện tại đã làm giảm đáng kể điểm hòa vốn toàn chu kỳ của họ xuống còn khoảng 40,85-43,10 đô la Mỹ/thùng, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 65 đô la Mỹ của các công ty khoan đá phiến Mỹ.
Công ty khai thác cát dầu lớn của Canada, Imperial Oil (NYSE:IMO), là một ví dụ điển hình. Imperial Oil tiết kiệm khoảng 30 triệu đô la Canada (22 triệu đô la Mỹ) mỗi năm bằng cách sử dụng robot Spot của Boston Dynamics tại cơ sở Cold Lake, Alberta.
Robot Spot thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra và bảo trì thiết bị thường xuyên và tốn thời gian, chẳng hạn như giám sát bộ trao đổi nhiệt và giao diện dầu/nước. Robot có thể được triển khai trong môi trường nguy hiểm hoặc các khu vực khó tiếp cận, giúp giảm thiểu nguy cơ con người tiếp xúc với rủi ro, chi phí và thời gian ngừng hoạt động liên quan do các sự cố an toàn. Bằng cách tự động hóa tới 70% các vòng kiểm tra của người vận hành, robot giải phóng nhân công để tập trung vào các nhiệm vụ phức tạp hơn, có giá trị cao hơn và quan trọng hơn, đòi hỏi sự phán đoán của con người.
Hơn nữa, dữ liệu được thu thập bởi các cảm biến khác nhau của robot (cảm biến hình ảnh, nhiệt, âm thanh và phát hiện khí) giúp Imperial chuyển sang bảo trì dự đoán, cho phép họ phát hiện sớm các dấu hiệu hư hỏng thiết bị và giải quyết các vấn đề trước khi chúng gây ra thời gian ngừng hoạt động tốn kém.
Việc tăng cường tự động hóa đã giúp nâng cao hiệu quả hoạt động chung của công ty, góp phần tăng lợi nhuận ròng của Imperial thêm 700 triệu đô la Canada vào năm 2024. Lợi nhuận của Imperial dự kiến sẽ tiếp tục tăng và đạt 1,2 tỷ đô la Canada vào năm 2027.
Nguồn tin: xangdau.net
 





















