Liên minh châu Âu đã tăng 9% lượng khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu từ Nga kể từ khi chiến tranh ở Ukraine nổ ra vào năm 2022, ngay cả khi khối này chỉ trích các quốc gia khác bị cáo buộc tài trợ cho Điện Kremlin. Theo The Economic Times, lượng khí đốt LNG nhập khẩu từ Nga vào khối này đã tăng trong khi lượng mua từ Mỹ và các nhà xuất khẩu khác lại giảm. Chỉ riêng trong năm 2024, EU đã nhập khẩu 17,8 triệu tấn LNG của Nga - tăng hơn 2 triệu tấn so với năm trước - đạt mức mà nhà phân tích Jan-Eric Fähnrich của Rystad Energy mô tả là "mức kỷ lục".
Sự gia tăng này đã củng cố thêm lý lẽ cho những người chỉ trích ở Ấn Độ, quốc gia hiện đang phải đối mặt với áp lực từ Hoa Kỳ và EU về mối quan hệ năng lượng của chính mình với Nga. Hôm thứ Tư, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã áp đặt thêm 25% thuế quan đối với Ấn Độ, nâng tổng mức thuế lên 50% và cáo buộc nước này "tiếp tay cho cỗ máy chiến tranh". Động thái này diễn ra vài tuần sau khi EU trừng phạt nhà máy lọc dầu Nayara Energy của Ấn Độ do Rosneft nắm giữ 49,13% cổ phần, một lần nữa với lý do là vai trò của nhà máy lọc dầu này trong việc tài trợ cho cuộc chiến của Putin.
Ấn Độ đã phản bác, chỉ ra rằng cả Washington và Brussels vẫn tiếp tục giao thương rộng rãi với Nga bất chấp những lời lẽ cứng rắn của họ. Các quốc gia thành viên EU vẫn nhập khẩu một lượng lớn dầu, khí đốt, sắt, thép, niken và phân bón. Kể từ tháng 1 năm 2022, khối này đã mua 297 tỷ euro hàng hóa của Nga.
Tuy nhiên, những tuyên bố của Ấn Độ đã bỏ qua quỹ đạo thương mại rộng lớn hơn. Dữ liệu của Eurostat cho thấy nhập khẩu của EU từ Nga đã giảm 86% kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Trong quý I năm 2025, khối này chỉ nhập khẩu 8,74 tỷ euro (10,11 tỷ đô la) hàng hóa từ Nga, giảm so với mức 30,58 tỷ euro trong quý I năm 2021, chủ yếu do các lệnh trừng phạt nghiêm khắc đối với khí đốt đường ống, than đá, dầu mỏ và đầu vào công nghiệp. Tuy nhiên, LNG vẫn là một ngoại lệ đáng chú ý.
Sự hỗn loạn chính trị của những con số
Theo nhà phân tích khí đốt Jan-Eric Fähnrich của Rystad Energy, lượng nhập khẩu LNG của EU từ Nga đã đạt "mức kỷ lục" vào năm 2024. EU đã nhập khẩu 17,8 triệu tấn LNG từ Nga vào năm 2024, tăng hơn 2 triệu tấn so với năm trước. Năm ngoái, EU đã mua 49,5 tỷ mét khối khí đốt đường ống của Nga và thêm 24,2 tỷ mét khối dưới dạng khí siêu lạnh.
Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra và nhìn vào bức tranh toàn cảnh, câu chuyện lại không mấy rõ ràng.
EU tiếp tục mua một lượng lớn dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, sắt, thép, niken và phân bón từ Nga, với khối này nhập khẩu hàng hóa Nga trị giá 297 tỷ euro kể từ tháng 1 năm 2022. Tuy nhiên, thương mại giữa EU và Nga đã suy giảm mạnh kể từ khi chiến tranh nổ ra do nhiều lệnh trừng phạt đối với các sản phẩm của Nga. Thực tế, theo dữ liệu của Eurostat, nhập khẩu từ Nga từ đầu năm 2022 đến quý 1 năm 2025 đã giảm 86%. EU đã mua hàng hóa của Nga trị giá 8,74 tỷ euro (10,11 tỷ đô la) trong quý 1 năm 2025, giảm so với mức 30,58 tỷ euro trong quý 1 năm 2021.
Trái ngược với tuyên bố của Ấn Độ, tổng lượng hàng hóa năng lượng mà châu Âu mua từ Nga đã giảm mạnh. Lượng dầu nhập khẩu từ Nga vào châu Âu đã giảm xuống còn 1,48 tỷ euro trong quý 1 năm 2025, chỉ bằng một phần nhỏ so với mức 14,06 tỷ euro chi cho mặt hàng này trong cùng kỳ bốn năm trước. Châu Âu hiện nhập khẩu khoảng 17% khí đốt tự nhiên, bao gồm LNG và khí đốt từ đường ống TurkStream, từ Nga, giảm so với mức 48% trong quý 1 năm 2021. Xuất khẩu LNG của Nga sang châu Âu trong nửa đầu năm nay đạt 7,9 triệu tấn, giảm 13% so với cùng kỳ năm trước.
Hơn nữa, châu Âu hiện nhập khẩu ít hàng hóa phi năng lượng từ Nga hơn đáng kể so với trước chiến tranh. EU đã nhập khẩu 7,71% lượng sắt từ Nga trong quý I năm 2025, giảm so với mức 18,28% của bốn năm trước, trong khi thị phần phân bón nhập khẩu của Nga trong khối giảm nhẹ từ 28,15% trong quý I năm 2021 xuống còn 25,62% trong quý I năm 2025.
Một xu hướng tương tự cũng có thể thấy ở Hoa Kỳ, với dữ liệu từ Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ và Cục Phân tích Kinh tế Hoa Kỳ cho thấy tổng kim ngạch nhập khẩu từ Nga đã giảm xuống còn 2,5 tỷ đô la trong nửa đầu năm 2025, so với mức 14,14 tỷ đô la của bốn năm trước đó, theo Reuters. Năm ngoái, kim ngạch nhập khẩu phân bón của Nga từ Hoa Kỳ đạt 1,27 tỷ đô la, tăng nhẹ so với mức 1,14 tỷ đô la của bốn năm trước; urani và plutoni làm giàu giảm xuống còn 624 triệu đô la vào năm 2024 từ mức 646 triệu đô la vào năm 2021; và kim ngạch nhập khẩu palladium của Nga đã giảm từ 1,59 tỷ đô la năm 2021 xuống còn 878 triệu đô la vào năm 2024. Nhìn chung, Hoa Kỳ đã nhập khẩu hàng hóa trị giá 24,51 tỷ đô la từ Nga kể từ khi chiến tranh bắt đầu.
Trái ngược hoàn toàn với châu Âu và Hoa Kỳ, kim ngạch nhập khẩu của Ấn Độ từ Nga đã tăng vọt kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Theo tờ The Business Standard của Ấn Độ, kim ngạch xuất khẩu dầu thô của Đài Loan tăng vọt lên 65,7 tỷ đô la vào năm 2024 từ mức 8,25 tỷ đô la vào năm 2021. Không có gì ngạc nhiên khi dầu thô là động lực lớn nhất của sự tăng trưởng này, với kim ngạch nhập khẩu từ Nga tăng vọt lên 52,2 tỷ đô la vào năm 2024 so với mức chỉ 2,31 tỷ đô la bốn năm trước. Kim ngạch nhập khẩu than và các sản phẩm liên quan đến cola của Ấn Độ từ Nga đã tăng vọt lên 3,5 tỷ đô la vào năm 2024 từ mức 1,12 tỷ đô la năm 2021, trong khi kim ngạch nhập khẩu phân bón tăng hơn gấp ba lần lên 1,67 tỷ đô la vào năm 2024 từ mức 483 triệu đô la bốn năm trước.
Nguồn tin: xangdau.net