Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Châu Âu muốn khí đốt của Mỹ nhiều hơn lượng đang nhập khẩu

Thỏa thuận thương mại Hoa Kỳ-EU yêu cầu Liên minh Châu Âu mua 250 tỷ đô la năng lượng của Hoa Kỳ mỗi năm trong ba năm tới. Mặc dù nguồn cung năng lượng bổ sung từ Hoa Kỳ sẽ giúp khối này trên con đường loại bỏ nhập khẩu năng lượng từ Nga trong vòng vài năm, nhưng theo các nhà phân tích, khối lượng cần thiết để đạt được mục tiêu trong thỏa thuận thương mại này quá lớn đến mức không thực tế.

Các nhà đầu tư và xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ đang tận dụng đà tăng trưởng này với việc chấm dứt lệnh tạm dừng phê duyệt các dự án mới dưới thời Biden và Chính quyền Trump sẵn sàng hỗ trợ và tìm kiếm các thỏa thuận mua LNG cho một dự án mới quy mô lớn ở Alaska.

Năng lượng Mỹ là bên hưởng lợi trong thỏa thuận thương mại Mỹ-EU, với mức thuế đối với hầu hết hàng hóa của EU là 15%, chỉ bằng một nửa so với đề xuất ban đầu là 30%.

Tuy nhiên, xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ sẽ cần phải tăng mạnh - từ mức vốn đã cao - nếu châu Âu muốn mua tổng cộng 750 tỷ đô la năng lượng của Mỹ trong ba năm.

Liệu việc EU tăng gấp ba lần khối lượng năng lượng mua từ Hoa Kỳ có khả thi hay không?

Việc tăng tốc xuất khẩu của Hoa Kỳ chắc chắn sẽ làm tăng đòn bẩy địa chính trị của Hoa Kỳ vào thời điểm châu Âu tìm cách loại bỏ khí đốt của Nga vào năm 2027.

Tuy nhiên, các nhà phân tích đặt câu hỏi về tính khả thi của sự bùng nổ xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ vì EU sẽ cần phải tăng ít nhất gấp ba lần lượng dầu, khí đốt và than đá nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào năm 2024 để đáp ứng các điều khoản của thỏa thuận thương mại.

Tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm dầu mỏ, dầu thô và khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ đều đạt mức cao kỷ lục vào năm 2024, theo dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA).

Nhìn chung, tổng kim ngạch xuất khẩu năng lượng của Hoa Kỳ sang tất cả các quốc gia trên thế giới vào khoảng 318 tỷ đô la. Theo tính toán của Reuters dựa trên dữ liệu của Eurostat, EU đã mua dầu, khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) và than đá với tổng trị giá 76 tỷ đô la vào năm ngoái.

Điều này có nghĩa là EU cần phải tăng gấp ba lần lượng nhập khẩu này, và điều này khó có thể xảy ra, các nhà phân tích cho biết.

Mặc dù xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ đã lập kỷ lục trong những năm gần đây, nhưng chúng không thể tăng đáng kể trong ngắn và trung hạn.

Năng lực xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ đang tăng lên khi các nhà máy mới được phê duyệt từ nhiều năm trước đi vào hoạt động.

Bất chấp hàng loạt quyết định đầu tư cuối cùng (FID) cho các dự án mới dưới thời Chính quyền Trump, các cơ sở này sẽ mất nhiều năm để xây dựng và đi vào hoạt động.

Suy cho cùng, Hoa Kỳ có giới hạn về năng lực hiện tại.

Với việc EU cam kết mua thêm LNG và các nguồn năng lượng khác trong ngắn và trung hạn, các công ty khai thác của Mỹ không thể đáp ứng được nhu cầu này, vốn có thể được tạo ra một cách giả tạo và không nhất thiết do thị trường thúc đẩy.

"Việc mua các sản phẩm năng lượng của Hoa Kỳ sẽ đa dạng hóa nguồn cung ứng của chúng tôi và góp phần vào an ninh năng lượng của Châu Âu", Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen phát biểu tuần trước khi bình luận về thỏa thuận thương mại.

"Chúng tôi sẽ thay thế khí đốt và dầu mỏ của Nga bằng việc mua đáng kể lượng LNG, dầu mỏ và nhiên liệu hạt nhân từ Hoa Kỳ."

Sự bùng nổ xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ sẽ không đủ

Nhưng những giao dịch mua đáng kể này sẽ cần một sự gia tăng đáng kể năng lực xuất khẩu của Hoa Kỳ. Trong báo cáo Triển vọng Năng lượng Hàng năm 2025 hồi đầu tháng, EIA ước tính rằng trong suốt năm 2028, toàn bộ sự tăng trưởng xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ sẽ là kết quả của các cơ sở hiện có và đang được xây dựng, được công bố tính đến tháng 6 năm 2024.

Xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ đã tăng trưởng hàng năm kể từ năm 2016, từ 0,5 Bcf/ngày năm 2016 lên 11,9 Bcf/ngày năm 2024, đưa Hoa Kỳ trở thành quốc gia xuất khẩu LNG lớn nhất thế giới vào năm 2023 và 2024.

EIA dự kiến xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng trưởng, nhờ sự khởi động của Plaquemines LNG, Corpus Christi LNG Giai đoạn 3 và Golden Pass LNG. Các cơ sở này có tổng công suất xuất khẩu danh nghĩa là 5,3 Bcf/ngày (lên đến công suất đỉnh 6,3 Bcf/ngày) và sẽ mở rộng công suất xuất khẩu LNG hiện tại của Hoa Kỳ lên gần 50% khi các dự án này đi vào hoạt động hoàn toàn.

Hơn nữa, công suất xuất khẩu LNG mới của Hoa Kỳ có thể được xây dựng tối đa hàng năm là 0,8 nghìn tỷ feet khối (Tcf) trong giai đoạn 2030-2050, nhưng nếu việc này khả thi về mặt kinh tế, chính quyền lưu ý.

Ngay cả khi tất cả các dự án đã được lên kế hoạch hoặc công bố khác được phê duyệt hôm nay, chúng cũng sẽ không kịp đáp ứng nhu cầu tăng đáng kể xuất khẩu LNG, qua đó thúc đẩy mạnh mẽ nhập khẩu của EU trong vòng ba năm.

EU đã trở thành khách hàng mua LNG hàng đầu của Hoa Kỳ, nhưng các nhà xuất khẩu LNG, với giá cả linh hoạt và hàng hóa không hạn chế điểm đến, thường vận chuyển khí đốt đến các khu vực có giá cao hơn so với châu Âu. Đó chính là châu Á, khu vực nhập khẩu LNG hàng đầu, nơi một số quốc gia khác - bao gồm Nhật Bản và Ấn Độ - cũng đã chạy đua cam kết tăng cường mua LNG và các sản phẩm năng lượng khác của Hoa Kỳ để đàm phán giảm thuế quan và đạt được các thỏa thuận thương mại có lợi hơn.

Tóm lại, xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ đang bùng nổ, nhưng chúng sẽ không thể giúp EU tăng gấp ba lần lượng nhập khẩu năng lượng từ Hoa Kỳ, theo thỏa thuận thương mại.

Cuộc cạnh tranh giữa châu Âu và châu Á về nguồn cung LNG của Hoa Kỳ cũng sẽ tác động đến giá cả. Trên bình diện quốc tế, giá LNG có thể tăng và khuyến khích các nhà sản xuất Hoa Kỳ xuất khẩu nhiều khí đốt tự nhiên hơn, điều này sẽ làm giảm nguồn cung nội địa sẵn có tại Hoa Kỳ. Điều này sẽ làm tăng giá khí đốt tự nhiên và chi phí năng lượng cho người tiêu dùng - một diễn biến mà Chính quyền Trump không hề muốn thấy.

Nguồn tin: xangdau.net

ĐỌC THÊM