Để sử dụng Xangdau.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Xangdau.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Chiến lược "Giảm có kiểm soát" của các tập đoàn dầu mỏ lớn che giấu một nỗ lực mở rộng

Trong nhiều năm, những cuộc thảo luận trong phòng họp và các buổi thuyết trình với nhà đầu tư luôn xoay quanh chủ đề "kỷ luật" và "hiệu quả vốn". Đây là những mật mã cho một chiến lược giúp giữ sản lượng gần như không đổi, cắt giảm ngân sách thăm dò rủi ro cao và mang lại nhiều tiền hơn cho cổ đông dưới hình thức cổ tức và mua lại cổ phiếu. Kỷ nguyên theo đuổi tăng trưởng sản lượng bằng mọi giá đã qua, thay vào đó là một phương pháp quản lý danh mục đầu tư nhiên liệu hóa thạch như những mỏ đã khai thác lâu năm và đang suy giảm.

Những thông tin này rất rõ ràng. Các công ty lớn của châu Âu như BP và Shell nói về việc giảm dần sản lượng dầu trong những thập kỷ tới. Các công ty khổng lồ của Mỹ như ExxonMobil và Chevron, mặc dù ít nói rõ hơn về sự suy giảm, nhưng lại tập trung thông điệp của họ vào lợi nhuận cổ đông hơn là mở rộng mạnh mẽ. Về lý thuyết, điều này cho thấy một ngành công nghiệp sẵn sàng chấp nhận rằng nhu cầu dầu sẽ đạt đỉnh trong vòng một thập kỷ hoặc lâu hơn, và quản lý sự suy giảm theo cách có lợi cho các nhà đầu tư.

Nhưng câu chuyện về việc thu hẹp được quản lý này chỉ nói lên một nửa câu chuyện.

Tận dụng tối đa hiện tại

Phía sau hậu trường, các công ty dầu mỏ lớn đang nỗ lực hết sức để khai thác từng giọt giá trị cuối cùng từ cơ sở tài nguyên hiện có của họ. Tại Hoa Kỳ, việc ExxonMobil hợp nhất diện tích lưu vực Permian và việc Chevron mua lại Hess đều là những động thái nhằm đảm bảo nguồn dầu mỏ có tuổi thọ cao, chi phí thấp và vẫn có lãi ngay cả trong môi trường giá thấp. Những tài sản này cho phép các công ty duy trì dòng tiền trong nhiều thập kỷ, ngay cả khi nhu cầu dầu mỏ toàn cầu bắt đầu chững lại.

Ở những nơi khác, các dự án khai thác ngoài khơi ở Guyana, Brazil và Vịnh Mexico đang được triển khai với tốc độ tối đa. Các dự án này đã được phê duyệt trong những năm giá dầu cao và hiện đang được đưa vào vận hành ngay khi chi phí ổn định, mang lại lợi nhuận rất cạnh tranh. Các khoản đầu tư vào LNG, từ Qatar đến Mozambique đến Bờ Vịnh Hoa Kỳ, đang được mở rộng dựa trên lập luận rằng nhu cầu khí đốt sẽ vẫn cao cho đến những năm 2040.

Nói cách khác, ngay cả khi bộ máy quan hệ công chúng tập trung vào quá trình chuyển đổi năng lượng và sự suy giảm được kiểm soát, bộ máy vận hành vẫn đang tập trung vào việc tối đa hóa sản lượng nhiên liệu hóa thạch từ các tài sản tốt nhất hiện có.

Những bước đi lặng lẽ hướng đến các giải pháp thay thế

Điều này không có nghĩa là các công ty dầu mỏ hoàn toàn bỏ qua năng lượng tái tạo. Hoàn toàn không phải vậy. Chính bảng cân đối kế toán tài trợ cho việc mở rộng các mỏ dầu cũng đang tài trợ cho cổ phần trong các trang trại điện gió ngoài khơi, các dự án năng lượng mặt trời, các trung tâm hydro và các nhà máy nhiên liệu sinh học. Shell vẫn tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng sạc xe điện ở Châu Âu và Châu Á. TotalEnergies đã âm thầm xây dựng một trong những danh mục đầu tư năng lượng mặt trời lớn nhất trong số các công ty dầu khí lớn. BP, mặc dù đã giảm mục tiêu tăng trưởng năng lượng tái tạo, vẫn nắm giữ công suất điện gió đáng kể ở Mỹ và Anh.

Sự khác biệt nằm ở giọng điệu và tham vọng. Những khoản đầu tư này hiếm khi được các nhà đầu tư chú ý. Chúng được coi là sự đa dạng hóa danh mục đầu tư hơn là hoạt động kinh doanh cốt lõi của tương lai. Trong nhiều trường hợp, ngưỡng lợi nhuận được đặt ra cho năng lượng tái tạo cao hơn ngưỡng áp dụng cho dầu khí, khiến lĩnh vực này trông kém hấp dẫn trên lý thuyết. Điều này làm chậm tốc độ phân bổ lại vốn nội bộ.

Bẫy chuyển đổi nhân lực

Có lẽ tài sản bị bỏ qua nhiều nhất trong kho vũ khí của các công ty dầu khí lớn không phải là vốn, mà là nguồn nhân lực. Ngành này sử dụng hàng chục nghìn kỹ sư, quản lý dự án, chuyên gia hậu cần và chuyên gia kỹ thuật có khả năng thực hiện các dự án trị giá hàng tỷ đô la đúng thời hạn và đúng ngân sách trong một số môi trường đầy thách thức nhất trên thế giới.

Năng lực này chính xác là điều cần thiết để mở rộng quy mô các công nghệ carbon thấp như hydro xanh, thu giữ carbon và cơ sở hạ tầng lưới điện tiên tiến. Tuy nhiên, phần lớn nguồn nhân lực này vẫn tập trung vào việc kéo dài tuổi thọ của các mỏ dầu, tối ưu hóa biên lợi nhuận nhà máy lọc dầu và mang lại lợi nhuận gia tăng.

Không phải ngành này thiếu kỹ năng cho quá trình chuyển đổi năng lượng, mà là họ chưa đưa ra một quyết định chiến lược, có chủ đích để triển khai những kỹ năng đó trên quy mô lớn. Thay vào đó, các bộ phận năng lượng tái tạo vẫn còn nhỏ, thường tách biệt khỏi cấu trúc doanh nghiệp chính, và đôi khi được coi là các dự án thử nghiệm hơn là các hoạt động then chốt.

Tầm nhìn chiến lược

Việc ngần ngại đầu tư toàn lực vào quá trình chuyển đổi là điều dễ hiểu từ góc độ kinh doanh hạn hẹp. Dầu mỏ vẫn mang lại lợi nhuận cao, đặc biệt là từ các mỏ dầu chi phí thấp. Các cổ đông coi trọng tính kỷ luật dòng tiền và cổ tức, chứ không phải các khoản đầu tư dài hạn có thể mất hàng thập kỷ mới sinh lời. Về mặt chính trị, quá trình chuyển đổi năng lượng vẫn chưa đồng đều, khiến nhu cầu nhiên liệu hóa thạch trở nên linh hoạt hơn so với nhiều người ủng hộ khí hậu từng nghĩ.

Nhưng sự thận trọng này cũng có cái giá của nó. Nếu các tập đoàn dầu mỏ lớn chờ đợi cho đến khi các tín hiệu thị trường và chính sách trở nên rõ ràng trước khi chuyển đổi nguồn lực, họ có nguy cơ mất khả năng tự định hình quá trình chuyển đổi theo ý mình. Đến lúc đó, các công ty điện lực, công ty công nghệ và các nhà đầu tư năng lượng sạch chuyên biệt có thể đã nắm bắt được những cơ hội sinh lời nhất, khiến các công ty dầu mỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo thay vì dẫn đầu.

Một cơ hội dẫn đầu bị bỏ lỡ

Điều khiến giới quan sát và đối với nhiều người trong ngành cảm thấy thất vọng là các công ty lớn có vị thế độc nhất để dẫn dắt một cuộc chuyển đổi thực dụng, quy mô lớn. Họ có phạm vi hoạt động toàn cầu, danh mục dự án sâu rộng và kinh nghiệm tích hợp chuỗi cung ứng phức tạp trên toàn cầu. Họ biết cách vận hành trong môi trường chính trị bất ổn, quản lý các chương trình vốn lớn và cung cấp cơ sở hạ tầng dưới áp lực.

Nếu dù chỉ một phần chuyên môn này được chuyển hướng sang mở rộng quy mô năng lượng tái tạo, cải thiện lưu trữ năng lượng và xây dựng các hệ thống thu giữ hydro và carbon, tác động có thể mang tính chuyển đổi. Các công ty dầu mỏ lớn có thể định nghĩa lại mình là các công ty năng lượng theo đúng nghĩa đen của từ này, thay vì các công ty dầu mỏ chỉ mải mê với các dự án xanh.

Con đường phía trước

Bản thân thời kỳ thu hẹp được quản lý không phải là vấn đề. Nhu cầu dầu mỏ cuối cùng sẽ ổn định, và việc quản lý sự chuyển đổi đó một cách cẩn thận là điều cần thiết cho cả sự ổn định kinh tế và an ninh năng lượng. Vấn đề nằm ở sự mất cân bằng giữa việc quản lý suy giảm và chuẩn bị cho những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Hiện tại, cán cân nghiêng hẳn về việc duy trì hiện trạng càng lâu càng tốt, với quá trình chuyển đổi được coi là một dự án thứ yếu. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nằm ở quá trình chuyển đổi.

Cho đến khi các công ty dầu mỏ lớn chọn đặt quá trình chuyển đổi vào trọng tâm chiến lược doanh nghiệp của mình, họ sẽ vẫn là những người chơi bị động trong một cuộc chơi đang diễn ra mà không có họ. Điều trớ trêu là chính kỷ luật và sự xuất sắc về kỹ thuật đã giúp họ thống trị trong kỷ nguyên dầu mỏ lại có thể giúp họ thống trị tương tự trong kỷ nguyên năng lượng carbon thấp. Nhưng điều đó đòi hỏi một tầm nhìn đột phá và sự sẵn sàng nhìn nhận vai trò lãnh đạo không chỉ là một lối thoát được quản lý tốt.

Nguồn tin: xangdau.net

ĐỌC THÊM