Hàn Quốc, một trong 10 đối tác thương mại hàng đầu của Mỹ, đã trở thành một trong những mục tiêu nổi bật nhất của chế độ thuế quan đang thay đổi của Washington. Sau nhiều tháng đàm phán ngoại giao, Hoa Kỳ đã áp đặt mức thuế 15% đối với hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc, có hiệu lực từ ngày 7 tháng 8 - ít nghiêm trọng hơn mức thuế 25% ban đầu được đưa ra nhưng vẫn gây thiệt hại cho nền kinh tế lớn thứ tư châu Á. Đổi lại, Seoul đồng ý tăng cường đầu tư vào các dự án của Hoa Kỳ và cam kết mua 100 tỷ đô la sản phẩm năng lượng của Mỹ, một thỏa thuận nhằm giảm bớt tác động. Seoul đã lượng hóa tác động tiềm ẩn của thuế quan, dự báo chỉ tăng trưởng 0,9% cho năm 2025 (so với 1,8% vào đầu năm nay). Đây sẽ là tốc độ tăng trưởng yếu nhất kể từ đại dịch năm 2020, nhấn mạnh mức độ dễ bị tổn thương của mô hình kinh tế dựa vào xuất khẩu của quốc gia này trước các cú sốc thuế quan.
Tuy nhiên, cam kết về năng lượng dường như khó thực hiện trên thực tế hơn so với trên lý thuyết. Washington kỳ vọng Hàn Quốc sẽ tăng đáng kể lượng dầu thô nhập khẩu từ Mỹ, nhưng các nhà máy lọc dầu trên khắp đất nước đã dần chuyển hướng theo hướng đó trong nhiều năm. Theo dữ liệu của Kpler, lượng dầu WTI nhập khẩu từ Midland đã tăng từ 283.000 thùng/ngày vào năm 2020 lên 465.000 thùng/ngày vào năm 2025, nhờ các điều kiện thuận lợi theo hiệp định thương mại tự do song phương và hệ thống hoàn cước vận chuyển của Hàn Quốc, vốn thường khiến dầu WTI rẻ hơn so với dầu Trung Đông. Tuy nhiên, bất kỳ động thái gia tăng nào từ thời điểm này cũng sẽ bị hạn chế. Tổng lượng dầu thô nhập khẩu từ Hàn Quốc đã ổn định trong khoảng 2,8 đến 3 triệu thùng/ngày trong 5 năm qua, và mặc dù sản lượng của Mỹ tăng lên, Ả Rập Xê Út, Iraq và UAE vẫn giữ vai trò then chốt trong cơ cấu nguồn cung. Riêng Ả Rập Xê Út đã cung cấp 956.000 thùng/ngày cho Hàn Quốc vào năm 2025 cho đến nay, gần gấp đôi sản lượng của bất kỳ nhà cung cấp nào khác, và mặc dù sản lượng của Nga giảm mạnh sau khi chiến tranh Ukraine nổ ra, nhưng khoảng trống này đã nhanh chóng được lấp đầy bởi các nhà sản xuất Trung Đông khác.
Điều duy trì nguồn cung nhập khẩu này không chỉ là thói quen hay địa chính trị, mà còn là thiết kế cơ bản của hệ thống lọc dầu Hàn Quốc. WTI là dầu thô nhẹ, trong khi các nhà máy lọc dầu cực kỳ phức tạp của Hàn Quốc được thiết kế để xử lý các loại dầu nặng hơn, chủ yếu là dầu thô Trung Đông. Việc chuyển dịch quá nhiều sang dầu thô Mỹ (và sau đó là sản lượng sản phẩm nhẹ hơn) sẽ khiến một số cơ sở này bị bỏ không, làm bào mòn hiệu quả và lợi nhuận. Hàn Quốc vận hành năm nhà máy lọc dầu, và mỗi nhà máy đều minh họa tại sao việc đa dạng hóa lại dễ nói hơn làm. Nhà máy lớn nhất, Ulsan, do SK Energy sở hữu hoàn toàn, đã pha trộn WTI với các loại dầu nặng hơn từ Iraq, Kuwait và Ả Rập Xê Út để vận hành hết công suất. Yeosu, do Chevron sở hữu một nửa cổ phần, cũng đi theo mô hình tương tự, pha trộn khối lượng WTI ngày càng tăng với các loại dầu thô nặng hơn từ Iraq. Các nhà máy lọc dầu Onsan và Daesan, do Saudi Aramco sở hữu một phần với tỷ lệ sở hữu lần lượt là 63% và 17%, chủ yếu dựa vào dầu thô Arab Light và Arab Medium, chiếm khoảng 80% sản lượng dầu thô của họ. Với lợi ích của Saudi Arabia gắn liền trực tiếp với cơ cấu sở hữu của họ, bất kỳ nỗ lực nào nhằm thay thế dầu thô Mỹ đều gặp phải sự phản đối. Trong khi đó, Incheon, nhà máy lọc dầu nhỏ nhất, đang chật vật vận hành ngay cả ở mức 50% công suất và phải đối mặt với những hạn chế về vận hành khiến họ không thể hấp thụ lượng dầu nhẹ dư thừa.
Ngay cả tại các nhà máy lọc dầu có thể xử lý nhiều dầu WTI hơn, hiệu quả kinh tế cũng đã suy yếu. Dầu thô nhẹ như WTI tạo ra lượng naphtha lớn hơn, một nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp hóa dầu. Tuy nhiên, tình trạng dư cung toàn cầu, được thúc đẩy bởi sự mở rộng công suất không ngừng của Trung Quốc, đã tạo ra tình trạng thừa cung hóa dầu. Biên lợi nhuận đã giảm mạnh, và vào ngày 20 tháng 8, các công ty hóa dầu Hàn Quốc đã công bố cắt giảm tổng 25% công suất cracking naphtha của nước này. Đối với các nhà máy lọc dầu, cracking naphtha liên tục ở mức âm, có nghĩa là việc mua thêm dầu thô nhẹ không chỉ gây áp lực lên kết cấu nhà máy lọc dầu mà còn có nguy cơ tạo ra những sản phẩm không có thị trường sinh lời.
Bên cạnh những hạn chế vấn đến vận hành này là các nghĩa vụ hợp đồng ràng buộc Hàn Quốc với các nhà cung cấp Trung Đông. Không giống như các nhà sản xuất Mỹ, những người chủ yếu bán theo điều khoản giao ngay, các nhà xuất khẩu Saudi Arabia hoặc Iraq ưa chuộng các hợp đồng dài hạn với ít sự linh hoạt. Việc không đáp ứng được khối lượng đã thỏa thuận có nguy cơ bị phạt hoặc thậm chí bị chấm dứt hợp đồng, một chính sách nghiêm ngặt phản ánh nhu cầu dầu thô dồi dào trên toàn cầu. Trên thực tế, điều này có nghĩa là các nhà máy lọc dầu Hàn Quốc không thể dễ dàng thay thế dầu Trung Đông mà không gây rủi ro cho an ninh nguồn cung để đáp ứng yêu cầu của Washington, bất kể áp lực ngoại giao có lớn đến đâu.
Căng thẳng giữa chính trị và thực tế thị trường trở nên rõ ràng vào tháng 6, khi Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với các nhà nhập khẩu dầu thô và LNG sau khi cuộc khủng hoảng Israel-Iran leo thang. Chính phủ đã tận dụng thời điểm này để thúc giục các nhà máy lọc dầu đa dạng hóa sản xuất, tránh phụ thuộc quá nhiều vào dầu thô Trung Đông, với lập luận rằng bất ổn khu vực làm nổi bật rủi ro của việc phụ thuộc quá mức. Tuy nhiên, ngay cả lời cảnh báo trực tiếp này cũng không thể thay đổi được hành vi: Nhập khẩu tiếp tục chủ yếu từ Trung Đông, trong khi khối lượng nhập khẩu từ Mỹ chỉ tăng nhẹ.
Hiện tại, Seoul đang tiến dần đến một hướng đi trung dung, tăng nhập khẩu dầu thô từ Mỹ ở mức vừa phải trong khi vẫn dựa vào nguồn cung dầu nặng từ vùng Vịnh. Tuy nhiên, thỏa thuận đạt được dưới áp lực thuế quan đã phơi bày một sự thật khó chịu: Hàn Quốc không thể đáp ứng yêu cầu của Washington mà không làm suy yếu nền tảng của hệ thống lọc dầu và ngành công nghiệp hóa dầu. Sự phụ thuộc quá mức vào nguồn cung từ Trung Đông bị ràng buộc bởi thiết kế nhà máy lọc dầu, nghĩa vụ hợp đồng và cổ phần sở hữu.
Điều này khiến Seoul bị mắc kẹt giữa hai lựa chọn khó khăn, buộc phải làm hài lòng đồng minh quan trọng nhất của mình bằng cách mua những thùng dầu mà họ không thể sử dụng hết, hoặc duy trì logic vận hành của hệ thống năng lượng và có nguy cơ bị trả đũa thương mại thêm nữa. Trên thực tế, khả năng cao nhất là các nhà máy lọc dầu Hàn Quốc sẽ tăng nhẹ lượng dầu mua từ Mỹ, pha trộn những thùng dầu WTI dư thừa với các loại dầu nặng hơn từ Trung Đông, một sự thỏa hiệp đảm bảo cân bằng cho ngành lọc dầu nhưng vẫn chưa đáp ứng được tham vọng của Washington. Dù thế nào đi nữa, cái giá phải trả cho việc thỏa thuận vẫn rất cao. Trường hợp của Hàn Quốc là một lời nhắc nhở sâu sắc rằng, dù các chính trị gia có tìm cách thúc đẩy các thỏa thuận đến đâu, họ cũng không thể viết lại luật lệ và kinh tế của ngành lọc dầu.
Nguồn tin: xangdau.net